Bản án 158/2020/HN-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 158/2020/HN-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 111/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 308/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Thùy L - Sinh năm 1986 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp KT2, xã KT, huyện CM, tỉnh An Giang.

Chỗ ở hiện nay: S19, đs 3, kpl, phường TP, Q 7, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn Q - Sinh năm 1983 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp KH1, xã KT, huyện CM, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và tờ tự khai nguyên đơn bà Võ Thị Thùy L trình bày: Vợ chồng tự tìm hiểu và sống chung vào năm 2012, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp. Vợ chồng không còn sống chung từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà yêu cầu được ly hôn ông Huỳnh Văn Q.

Về con chung: Bà L xác định vợ chồng có 02 con chung tên Huỳnh Kim Cát T - Sinh ngày 05/5/2013, Huỳnh Cát Hạ M - Sinh ngày 26/01/2016, hiện đang sống với bà. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu ông Q cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà L xác định không có.

Về nợ chung: Bà L xác định vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Ông Huỳnh Văn Q đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của bà L và được triệu tập hợp lệ để giải quyết, nhưng ông không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải nên không ghi nhận ý kiến và hòa giải được.

Tại phiên tòa, bà L có đơn xin xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên các yêu cầu trước đây.

Ông Huỳnh Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, nhưng ông vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo theo quy định của pháp luật.

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về việc giải quyết vụ án:

Chấp nhận yêu cầu của bà Võ Thị Thùy L xin ly hôn ông Huỳnh Văn Q.

Về quan hệ con chung: Bà L được tiếp tục nuôi con 02 chung tên Huỳnh Kim Cát T - Sinh ngày 05/5/2013, Huỳnh Cát Hạ M - Sinh ngày 26/01/2016, hiện đang sống với bà. Ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về hình thức: Bà Võ Thị Thùy L khởi kiện xin ly hôn ông Huỳnh Văn Q có nơi cư trú ấp KH1, xã KT, huyện CM, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bà Võ Thị Thùy L có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông Huỳnh Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 02, nhưng ông vắng mặt không lý do chính đáng. Căn cứ Điều 227, Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Võ Thị Thùy L, ông Huỳnh Văn Q là có căn cứ.

[2]. Về nội dung: Ông Huỳnh Văn Q và bà Võ Thị Mỹ L sống chung vào năm 2012, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, theo bà L, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không hợp tính tình. Nhận thấy tình cảm không còn, bà L xin ly hôn ông Q. Hội đồng xét xử xét thấy, bà L và ông Q kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình giải quyết, ông Q đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của bà L, nhưng ông không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải. Điều này chứng tỏ tình cảm của ông Q đối với bà L đã không còn, mâu thuẫn giữa hai người đã trầm trọng, nếu sống chung lại cũng không hạnh phúc. Do đó, việc bà L xin ly hôn ông Q là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.1]- Về quan hệ con chung: Bà L xác định vợ chồng có 02 con chung tên Huỳnh Kim Cát T - Sinh ngày 05/5/2013, Huỳnh Cát Hạ M - Sinh ngày 26/01/2016, hiện đang sống với bà. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung đến nay, bà L là người trực tiếp nuôi con chung, nên tình cảm của cháu đã gắn liền với người nuôi dưỡng, nếu thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các cháu. Tòa án cũng ghi nhận ý kiến của cháu Tường và cháu có nguyện vọng sống với bà L sau khi cha mẹ ly hôn. Do đó, yêu cầu của bà L phù hợp với nguyện vọng của cháu Tường và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, có cơ sở chấp nhận.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, do bà L không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung: Bà L xác định không có, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[2.4] - Về nợ chung: Bà L xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]- Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Đương sự phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn Cứ:

Điều 28, 35, 39, 147, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Võ Thị Thùy L xin ly hôn ông Huỳnh Văn Q.

Về quan hệ con chung: Bà Võ Thị Thùy L được tiếp tục nuôi 02 con chung tên Huỳnh Kim Cát T - Sinh ngày 05/5/2013, Huỳnh Cát Hạ M - Sinh ngày 26/01/2016, hiện đang sống với bà L. Ông Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Võ Thị Thùy L cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Huỳnh Văn Q trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về quan hệ tài sản chung: Bà L xác định không có.

Về nợ chung: Ghi nhận bà L xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì bà L và ông Q vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Bà Võ Thị Thùy L phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0007951 ngày 04/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HN-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:158/2020/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về