Bản án 158/2018/HS-PT ngày 26/03/2018 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 158/2018/HS-PT NGÀY 26/03/2018 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 26 tháng 3 năm 2018, tại Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau, Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số 527/2017/TLPT-HS ngày 13 tháng 10 năm 2018, đối với bị cáo Phan Văn L về tội "Giết người". Do Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HSST ngày 30 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 193/2018/QĐXXPT-HS ngày 07 tháng 3 năm 2018;

Bị cáo có kháng cáo: Phan Văn L, giới tính: Nam; sinh năm 1974. Nơi đăng ký HKTT: Ấp RB, xã PL, huyện TVT, tỉnh Cà Mau; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Làm vuông; Con ông: Phan Văn Q (Chết); Con bà: Lê Thị H (Chết); Vợ: Võ Thị Ph; Con: 01 người; Tiền án-Tiền sự: Không; Tạm giữ ngày 23/3/2017; Tạm giam: Từ ngày 01/4/2017 cho đến nay (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Lut sư Nguyễn Văn N - Công ty Luật TNHH Luật Sống thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau (Có mặt).

Bị hại: Hu Xuân Tr, sinh năm 1990 (chết);

Đi diện hợp pháp của bị hại: Ông Hầu Xuân D, sinh năm 1960; Địa chỉ: Ấp TT B, xã PL, huyện TVT, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 22/3/2017, Phan Văn L đến nhà anh Lê Quốc Tr1 để đặt cống vuông nuôi tôm, làm cùng với Liêu có anh Nguyễn Văn V, Lê Anh X, Nguyễn Văn B, Thái Trường Gi, Lê Văn Tr2, đến khoảng 16 giờ thì làm xong, lúc này vợ của L là chị Võ Thị Ph đến hỏi L để chở con về nhà cha mẹ ruột chị Ph ở ấp TL, xã PL, huyện TVT chơi thì Liêu không đồng ý. Sau đó, chị Ph đi về, còn L ở lại nhà anh Tr1 uống rượu, đến khoảng 20 giờ 30 phút thì L về nhà. Do về đến nhà không thấy vợ con nên L tức giận, lên võng nằm. Khoảng 21 giờ cùng ngày, nghe có tiếng xe nẹt pô và có người nói chuyện lớn tiếng ở trên cầu BP (cách nhà L khoảng 10m) nên L bực tức ra nhà sau lấy cây kéo cầm trên tay và đi lên cầu thì thấy có 01 xe mô tô đang đậu và 02 thanh niên gồm Lê Văn S đang ngồi trên thành cầu hai chân gác lên yên xe và Hầu Xuân Tr đứng cách đó khoảng 02 mét để đi vệ sinh và gọi bạn gái của Tr (nhà ở phía bên kia sông) ra gặp. Khi L đi đến cách Tr khoảng 5-6 mét thì L hỏi Tr: Mày muốn gì mậy?, nghe vậy nên S kêu Tr đi về. Tr đi đến chỗ L đứng, vừa đi Tr vừa nói với L: “Anh ruột ơi, em đang kêu bạn gái em”. L thấy Tr đưa tay xuống quần, L nghĩ Trường rút dây nịt ra để đánh nên đã cầm cây kéo đâm 01 nhát trúng vào vùng cổ của Tr rồi cầm kéo bỏ chạy. Lúc này, Tr chạy lại kêu S chở đi và nói: “Tao bị đâm rồi”. S dùng xe Honda chở Tr chạy qua khỏi dốc cầu BP khoảng 10m thì Tr ngã xuống lề lộ bất tỉnh, sau đó tử vong. Sau khi đâm Tr, L chạy về nhà ném cây kéo xuống ao sau nhà và đi ra mé sông trước nhà trốn, sau đó ra đầu thú và chỉ nơi ném cây kéo để Công an thu giữ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 47-GĐPY/2017 ngày 24/3/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Cà Mau kết luận nguyên nhân chết của Hầu Xuân Tr là do: Sốc mất máu cấp/Vết thương xuyên đứt động mạch cảnh cổ phải.

Ti Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2017, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn L phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Văn L 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2017.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 06/9/2017, bị cáo Phan Văn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo xác nhận Tòa án xét xử về tội giết người là đúng. Tuy nhiên hình phạt 14 năm tù là quá nặng. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì lý do sau khi phạm tội đã đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã bồi thường phần chi phí mai táng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

2. Luật sư bào chữa cho bị cáo L trình bày: Tòa án xét xử bị cáo về tội giết người là đúng. Tuy nhiên, do quá bức xúc dẫn đến bị cáo phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã khắc phục một phần thiệt hại, hoàn cảnh gia đình bị cáo có khó khăn, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và là lao động chính, gia đình có công với cách mạng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đi diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Trước khi phạm tội, bị cáo đã chuẩn bị hung khí là cây kéo và đâm vào vùng cổ anh Tr, hậu quả làm anh Tr tử vong. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người” là có căn cứ, đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo L kháng cáo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên vụ án được xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.

[2] Thấy rằng: Qua xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 21 giờ, ngày 22/3/2017, tại khu vực cầu BP, thuộc ấp RB, xã PL, huyện TVT, tỉnh Cà Mau, L đã cầm cây kéo đâm 01 nhát trúng vào vùng cổ của anh Tr. Sau khi gây án thì Liêu chạy về nhà. Hâu quả làm anh Tr tử vong. Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 47-GĐPY/2017 ngày 24/3/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an tỉnh Cà Mau kết luận nguyên nhân chết của Hầu Xuân Tr là do: Sốc mất máu cấp/Vết thương xuyên đứt động mạch cảnh cổ phải.

[3] Đối chiếu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Bị cáo L đã có hành vi giết anh Tr. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Hành vi phạm tội của bị cáo L là đặc biệt nguy hiểm đã xâm phạm đến tính mạng con người, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo L, thấy rằng: Các tình tiết xin giảm nhẹ hình phạt do bị cáo nêu ra đã được Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xem xét khi lượng hình. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Giết người”, với tình tiết tăng nặng định khung “có tính chất côn đồ” và xử phạt 14 năm tù là đúng quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 của Bộ luật Hình sự năm 1999, đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo.

[5] Vì vậy, kháng cáo của bị cáo L và nội dung bào chữa của Luật sư cho bị cáo là không có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Bị cáo L phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Các phần khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn L.

2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2017/HSST ngày 30 tháng 8 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

3. Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn L phạm tội “Giết người”.

Áp dụng: Điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009, xử phạt bị cáo Phan Văn L 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/3/2017.

Tiếp tục giam giữ bị cáo Phan Văn L để đảm bảo thi hành án.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phan Văn L phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 26 tháng 3 năm 2018)./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2018/HS-PT ngày 26/03/2018 về tội giết người

Số hiệu:158/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về