TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 157/2021/HS-ST NGÀY 03/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:117/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 148/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Văn L, sinh năm 1989 tại tỉnh H; thường trú: Xóm 2, xã H, huyện H, tỉnh H; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn C (đã chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1936; có vợ tên Cao Thị T, sinh năm 1990 và có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ không rõ năm sinh; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:
- Ngày 18/9/2013, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 258/2013/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 04/01/2014.
- Ngày 09/12/2014, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 724/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 25/6/2015.
- Ngày 08/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 178/2016/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2019.
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/02/2021 cho đến nay, vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Bị hại: Anh Đào Phương N, sinh năm 1999; thường trú: Thôn T, xã E, huyện S, tỉnh P; chỗ ở: Số 118, đường N15, khu dân cư B, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trần Thị Ngọc H, sinh năm 2000; thường trú: Thôn T, xã E, huyện S, tỉnh P; chỗ ở: Số 424/26A Tổ 1, khu phố 4, đường L, phường P, thành phố T, tỉnh B, vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người chứng kiến:
1. Anh Nguyễn Văn N, vắng mặt;
2. Anh Trà Thanh S, vắng mặt;
3. Anh Nguyễn Tiến Đ, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 11/02/2021, đối tượng H1 (không rõ nhân thân lai lịch) gọi điện thoại hẹn rủ Lê Văn L đi chơi và hẹn gặp nhau tại ngã ba Bình Đường thuộc khu phố Bình Đường 4, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, H1 điều khiển xe exciter màu xanh (chưa rõ biển số) đến địa điểm hẹn, rủ và chở L đi tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. H1 đưa cho L 01 cây đoản hình chữ T và 01 cục từ bằng kim loại màu vàng để bẻ khóa xe. Khi cả hai điều khiển xe đến một tiệm tạp hóa thuộc khu phố T, phường T, thành phố D thì nhìn thấy 01 xe mô tô biển số 78M1-170.60 của anh Đào Phương N đang dựng ở vỉa hè trước tiệm tạp hóa, đầu xe hướng vào trong.
Lúc này, H1 dừng xe cách vị trí xe khoảng 04 mét cảnh giới, L tiến về vị trí xe của anh N, lấy 01 cây đoản hình chữ T bẻ khóa chiếc xe, rồi lén lút điều khiển xe về hướng Ủy ban phường T và H1 điều khiển xe exciter màu xanh chạy theo sau. Sau đó, cả hai chạy tìm người để bán chiếc xe vừa trộm. Khi đi đến đoạn đường gần quán cơm Ngọc Dung thuộc khu phố N, phường D, thành phố D, tỉnh B thì bị lực lượng Công an tuần tra nghi vấn yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Lúc này cả hai điều khiển xe bỏ chạy đến đường số 16, khu Trung tâm hành chính thành phố D, tỉnh B thì L bị lực lượng Công an bắt giữ cùng tang vật, còn H1 chạy thoát.
Vật chứng thu giữ: 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda, số loại: Blade, màu sơn: đen, số khung: 3638LY003996, số máy: JA36E0859273, biển số: 78M1-170.60; 01 đầu đoản bằng kim loại và 01 thanh kim loại hình trụ vuông màu vàng hai đầu có nam châm.
Theo Kết luận định giá tài sản số 25/KLĐG-HĐĐGTS ngày 18/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố D, tỉnh B kết luận 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda, số loại: Blade, màu sơn: đen, số khung: 3638LY003996, số máy: JA36E0859273, biển số: 78M1-170.60 (sử dụng tháng 8/2020) trị giá 15.000.000 đồng.
Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận định giá tài sản số 25/KLĐG-HĐĐGTS ngày 18/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố D, tỉnh B.
Bản Cáo trạng số 139/CT-VKS-DA ngày 22 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, trong phần tranh tụng đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Văn L mức án từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.
Đối với đối tượng tên H1 là người đã rủ và chở bị cáo Lê Văn L thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 78M1-170.60 của anh Đào Phương N, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.
Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
- Đối với 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda, số loại: Blade, màu sơn: đen, số khung: 3638LY003996, số máy: JA36E0859273, biển số:
78M1-170.60, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại nên không đặt ra xem xét.
- Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 (một) đầu đoản bằng kim loại, 01 (một) thanh kim loại hình trụ vuông màu vàng hai đầu có nam châm.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã thu hồi trả lại cho bị hại Đào Phương N, bị hại N không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.
Quá trình tố tụng, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có đơn xin vắng mặt và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình tố tụng, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 290 và 292 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Căn cứ xác định bị cáo phạm tội: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 11/02/2021; biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 12/02/2021 và những chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ sơ vụ án, xác định: Ngày 11/02/2021, trước tiệm tạp hóa thuộc khu phố T, phường T, thành phố D, lợi dụng sơ hở, thiếu cảnh giác của bị hại Đào Phương N, bị cáo Lê Văn L cùng đối tượng tên H1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã lén lút chiếm đoạt 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda biển số 78M1-170.60 do anh Đào Phương N quản lý hợp pháp có trị giá 15.000.000 đồng.
Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản do bị hại quản lý hợp pháp có giá trị 15.000.000 đồng mà bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 139/CT-VKS-DA ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Tội phạm do bị cáo thực hiện đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét trong quá trình tố tụng bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về tội Trộm cắp tài sản, hiện đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[7] Về hình phạt:
Hình phạt chính: Xét bị cáo xâm phạm đến tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, đồng thời bị cáo là người có nhân thân xấu, hành vi phạm tội của bị cáo ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.
- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên áp dụng hình phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
Đối 01 (một) xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Honda biển số 78M1-170.60, hiện đã thu hồi trả lại cho bị hại nên không đặt ra xem xét.
Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã thu hồi trả lại cho bị hại Đào Phương N, bị hại N không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Đối với 01 (một) đầu đoản bằng kim loại, 01 (một) thanh kim loại hình trụ vuông màu vàng hai đầu có nam châm sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Đối với đối tượng tên H1 là người đã rủ và chở bị cáo Lê Văn L thực hiện hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 78M1-170.60 do anh Đào Phương N quản lý, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D, tỉnh B tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.
[10] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn L phạm tội Trộm cắp tài sản.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lê Văn L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/02/2021.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 89; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) đầu đoản bằng kim loại, 01 (một) thanh kim loại hình trụ vuông màu vàng hai đầu có nam châm.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/4/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Văn L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật/.
Bản án 157/2021/HS-ST ngày 03/06/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 157/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về