Bản án 157/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 157/2020/HSST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2020/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2020/HSST-QĐ ngày 02/3/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 22A/2020/HSST-QĐ ngày 01/4/2020 đối với các bị cáo:

1. Đinh Doanh T, sinh năm 1973 tại tỉnh Thái Bình; thường trú: Thôn Đ xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình; tạm trú: 4/62 tổ 15 khu phố L1, phường G, Thành phố A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Đinh Doanh C, sinh năm 1928 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1923; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị N, sinh năm 1974 và có 02 con sinh năm 2001 và năm 2008; tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân: Ngày 13/6/2013 Tòa án nhân dân thị xã Thuận An (nay là Thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 05 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”, theo bản án số 191.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/11/2019 đến ngày 08/01/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, có mặt.

2. Bùi Thanh L, sinh năm 1983 tại tỉnh Nam Định; thường trú: Khu phố T, thị trấn V, huyện H, tỉnh Lâm Đồng; tạm trú: 226/20/23 đường 8 tổ 16, khu phố 3, phường X quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Bùi Xuân L, sinh năm 1960 và con bà Ngô Thị B, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Đặng Ngọc H, sinh năm 1984 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2012; tiền sự, tiền án: Không có.

Nhân thân: Ngày 21/12/2000, Tòa Phúc Thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 08 năm tù về tội “Giết người” theo bản án số 3176, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày (thời điểm phạm tội bị cáo 16 năm 4 tháng 27 ngày tuổi) Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/11/2019 đến ngày 21/01/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, có mặt.

3. Bùi Văn P, sinh năm 1968 tại tỉnh Thái Bình; thường trú: Không; tạm trú: 28/6 khu phố B, phường C, Thành phố A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Bùi Văn P, sinh năm 1938 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1940; bị cáo có vợ tên Trần Thị N, sinh năm 1976 và có 01 con sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không có; bị tạm giam từ ngày 06/11/2019 đến ngày 08/01/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, có mặt.

4. Đặng Ngọc S, sinh năm 1977 tại Thành phố Hà Nội; thường trú: Tổ 7 phường K, quận B, Thành phố Hà Nội; tạm trú: 68 Nguyễn An Ninh, khu phố Đ2, phường A, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Đặng S, sinh năm 1955 (đã chết) và con bà Phạm Thị H, sinh năm 1955; bị cáo có vợ tên Đặng Thị L, sinh năm 1979 và có 02 con sinh năm 2003 và năm 2007; tiền án, tiền sự: Không có; bị tạm giam từ ngày 06/11/2019 đến ngày 08/01/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh, có mặt.

- Người làm chứng : Ông Trịnh Huy T1, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 06/11/2019, các bị cáo Bùi Thanh L, Bùi Văn P, Đinh Doanh T, Đặng Ngọc S đến thuê phòng 301 của nhà nghỉ Linh Chi địa chỉ 50/3 khu phố Nhị Đồng 2, phường Dĩ An, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Tại đây L, P, T, S bàn bạc chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền bằng hình thức đánh phỏm, mỗi ván đặt tiền từ 50.000 đồng đến 250.000 đồng. Tất cả chơi từ 20 giờ đến khoảng 23 giờ cùng ngày bị Công an phường Dĩ An, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương kiểm tra hành chính phòng 301 và lập biên bản bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với các bị cáo.

Vật chứng thu giữ: 2.000.000 đồng tiền thu tại chiếu bạc và 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc:

+ Bùi Thanh L mang theo và sử dụng 300.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt L thắng 100.000 đồng, thu giữ trên chiếu bạc của L 400.000 đồng.

+ Bùi Văn P mang theo và sử dụng 3.250.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt P thua 200.000 đồng, thu giữ trên người P số tiền 2.850.000 đồng, thu tại chiếu bạc 200.000 đồng.

+ Đặng Ngọc S mang theo và sử dụng 2.300.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt S thua 100.000 đồng, thu giữ trong người sơn số tiền 2.000.000 đồng, thu giữ 200.000 đồng trên chiếu bạc.

+ Đinh Doanh T mang theo số tiền 14.000.000 đồng, sử dụng 4.000.000 đồng đánh bạc, khi bị bắt T thắng 200.000 đồng, thu giữ số tiền 13.000.000 đồng trên người T, thu giữ 1.200.000 đồng trên chiếu bạc.

Tng số tiền các bị cáo sử dụng vào đánh bạc 9.850.000 đồng.

Vật chứng đã xử lý: Công an Thành phố Dĩ An đã trả bị cáo T số tiền 10.000.000 đồng do không sử dụng vào đánh bạc.

Cáo trạng số 75/CT – VKS ngày 20 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Đinh Doanh T, Bùi Thanh L, Bùi Văn P, Đặng Ngọc S về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên bản cáo trạng truy tố đối với các bị cáo, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:

Khon 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đinh Doanh T từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Khon 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Thanh L từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

Khon 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Văn P từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Khon 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Ngọc S từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 9.850.000 đồng, 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng.

Các bị cáo không bào chữa, không tranh luận với Đại diện Viện kiểm sát. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án các bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo T, L, P, S xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của các bị cáo: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 06/11/2019, biên bản ghi lời khai các bị cáo thể hiện ngày 06/11/2019, tại phòng 301 nhà nghỉ Linh Chi địa chỉ 50/3 khu phố Nhị Đồng 2, phường Dĩ An, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương các bị cáo Bùi Thanh L, Bùi Văn P, Đinh Doanh T, Đặng Ngọc S đánh bạc thắng thua bằng tiền với tổng số tiền 9.850.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Đánh bạc quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 20 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với các bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo P, S phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T, L, P, S thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Các bị cáo P, S có việc làm ổn định, các bị cáo nhất thời phạm tội. Bị cáo T, L có nhân thân xấu thể hiện việc đã bị xét xử về tội Đánh bạc và tội Giết người, tuy các bị cáo đã được xóa án tích, không xem là có tiền án nhưng lần phạm tội này thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm bị cáo T, L, P, S thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 03 năm tù. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn trật tự công cộng tại địa phương. Đánh bạc được xem là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm hình sự khác. Do vậy, hành vi trên của các bị cáo phải được xét xử nghiêm mới có tác dụng răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, do không có sự phân công vai trò cụ thể của các bị cáo nên không xem là tội phạm có tổ chức. Các bị cáo tham gia với vai trò người thực hành.

[4] Xét bị cáo T, P và S đã bị bắt tạm giam 2 tháng 4 ngày, bị cáo L bị bắt tạm giam 2 tháng 17 ngày. Vì vậy, việc áp dụng phạt tiền đối với các bị cáo cũng có tác dụng giáo dục, đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, cũng xem xét về số tiền cụ thể từng bị cáo tham gia đánh bạc để có mức phạt tiền phù hợp.

[5] Vật chứng thu giữ: 9.850.000 đồng do các bị cáo sử dụng Đánh bạc, cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Bộ bài tây 52 lá sử dụng việc đánh bạc cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo, việc xử lý vật chứng cũng như mức hình phạt đối với các bị cáo phù hợp quan điểm của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Đinh Doanh T, Bùi Thanh L, Bùi Văn P, Đặng Ngọc S phạm tội Đánh bạc.

1.1 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đinh Doanh T 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

1.2 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Thanh L 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

1.3 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn P 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

1.4 Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc S 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

2. Các biện pháp tư pháp:

2.1. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu sung vào ngân sách nhà nước 9.850.000 đồng (chín triệu, tám trăm năm mươi nghìn đồng);

Tch thu tiêu hủy: 01 (một) bộ bài tây Theo biên lai thu tiền số 01437, biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/01/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2.2 Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14. Các bị cáo Đinh Doanh T, Bùi Thanh L, Bùi Văn P, Đặng Ngọc S mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:157/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về