Bản án 157/2020/HS-PT ngày 12/11/2020 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 157/2020/HS-PT NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 12 tháng 11 năm 2020 tại Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 131/2020/TLPT-HS ngày 21/10/2020 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 128/2020/HS-ST ngày 11/09/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Bình T (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1965; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ dân phố ĐT, phường BH, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 07/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Trần Quang P, sinh năm 1940 và con bà Trần Thị N, sinh năm 1945. Gia đình có 09 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ là: Đoàn Thị Kim D, sinh năm 1965, vợ chồng có 02 con chung: lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 2001; Tiền án: Không; Tiền sự: 01. Tại Quyết định số 0017500 ngày 31/8/2018, bị công an phường Phố Cò, thành phố Sông Công xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đ, về hành vi “Đánh bạc”, đã chấp hành xong Quyết định và nộp phạt ngày 04/9/2018, chưa được xóa vi phạm.

Nhân thân: Ngày 07/01/2000, bị Công an phường Phố Cò, thị xã Sông Công (nay là thành phố Sông Công) xử phạt hành chính số tiền 50.000 đồng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện tại ngoại tại địa phương. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Quản Văn M (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1960; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: tổ dân phố 4A, phường PC, thành phố SC, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hoá: 10/10; nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông: Quản Văn X và bà Phạm Thị V (Đều đã chết). Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư. Có vợ là: Lê Thị T, sinh năm 1972, vợ chồng có 02 con chung, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1996. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định số 65 ngày 18/8/2005, bị Công an huyện Phổ Yên (nay là thị xã Phổ Yên) xử phạt hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, đã chấp hành xong quyết định và nộp phạt ngày 25/8/2005, đã được xóa vi phạm; Tại Quyết định số 23 ngày 29/5/2008, bị Công an phường Phố Cò, thị xã Sông Công (nay là thành phố Sông Công) xử phạt hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”, đã chấp hành xong quyết định và nộp phạt ngày 01/6/2009, đã được xóa vi phạm.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện tại ngoại tại địa phương. Vắng mặt tại phiên tòa.

(Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Văn Nguyên và 01 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/10/2019, Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên nhận được đơn tố giác của quần chúng nhân dân về việc Trần Bình T thường xuyên có biểu hiện đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, số đề cho nhiều người thông qua hình thức nhắn tin, gọi điện bằng điện thoại di động tại nơi ở của T, thuộc tổ dân phố ĐT, phường BH, thị xã PY, Thái Nguyên.

Ngày 18/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiến hành triệu tập Trần Bình T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên để làm việc. Quá trình điều tra, T khai nhận bắt đầu mua bán số lô, số đề từ tháng 06/2019 cho nhiều người, với hình thức: Đối với số đề, người chơi sẽ chọn một hoặc nhiều số từ 00 đến 99, số tiền cá cược tùy người chơi quyết định, kết quả đối chiếu với hai số cuối giải đặc biệt của sổ xố kiến thiết Miền Bắc. Tỷ lệ cá cược và trả thưởng là 1 ăn 80 lần, có nghĩa là người chơi mua 01 số đề (cá cược) với giá 1.000 đồng thì sẽ được trả thưởng 80.000 đồng nếu trúng thưởng. Đối với số lô, người chơi cũng chọn mua một hoặc nhiều số từ 00 đến 99, số tiền cá cược tính theo điểm, mỗi điểm lô tương ứng với 22.000 đồng hoặc 23.000 đồng (tùy từng thời điểm), kết quả trúng thưởng được đối chiếu với hai số cuối của tất cả các giải (27 giải) của sổ xố kiến thiết Miền Bắc. Tỷ lệ cá cược và trả thưởng là người chơi mua 1 điểm lô, nếu trúng thưởng sẽ được trả 80.000 đồng, trường hợp có nhiều giải trùng nhau thì người chơi sẽ trúng tất cả các giải và vẫn tính theo tỷ lệ 1 điểm lô trúng thưởng bằng 80.000 đồng, cụ thể:

Hi 17 giờ 58 phút, ngày 16/6/2019, Nguyễn Văn Ng sử dụng số điện thoại 0975.773.666 để nhắn tin đến số thuê bao 0866.488.690 của Trần Bình T để đặt mua các số đề 12, 21, 17, 71, 26, 62, 67, 76 mỗi số là 100.000 đồng, số đề 20, 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28, 29 mỗi số 50.000đ; số đề 02, 12, 22, 32, 42, 52, 62, 72, 82, 92 mỗi số 50.000đ; số đề 99, 27, 72, 22, 12, 21 mỗi số 100.000đ; số đề 62 là 1.500.000 đồng; số đề 26 là 500.000đ; Số lô 26 là 100 điểm, tương đương là 2.200.000 đồng. Tổng số tiền mà Ng mua số lô, số đề của T ngày 16/6/2019 là 6.600.000 đồng. T đồng ý bán những số lô, số đề trên cho Nguyên và nhắn tin trả lời “Ok”. Nội dung tin nhắn mua bán số lô, đề vẫn được lưu trong máy điện thoại Sam sung Galaxy J7, màu hồng của T. Kết quả thu giữ thư tín cho thấy, vào hồi 17 giờ 58 phút ngày 16/6/2019 có tin nhắn từ số điện thoại 0975.773.666 (đăng ký mang tên Vũ Thị Thanh M) gửi đến số điện thoại 0866.488.690 (đăng ký mang tên Trần Bình T). Sau khi có kết quả mở thưởng xổ số kiến thiết Miền Bắc ngày 16/6/2019, do không trúng số lô, số đề nào nên Nguyên vẫn nợ T số tiền 6.600.000 đồng và T vẫn lưu lại tin nhắn trong số điện thoại để ghi nhớ. Như vậy, tổng số tiền Nguyên và T sử dụng để đánh bạc trong ngày 16/6/2019 được xác định là 6.600.000 đồng.

Ngày 17/10/2019, Quản Văn M sử dụng số điện thoại 0975.140.908 nhắn tin đến số điện thoại 0866.488.690 của T để mua số lô, số đề, cụ thể là: Số đề 69, 96 mỗi số là 40.000 đồng; Số đề 13, 31,16 mỗi số là 60.000 đồng; Số đề 61 là 90.000 đồng. Tổng số tiền M mua số lô, số đề của T là 350.000 đồng. Số tiền này được M và T thống nhất sẽ trả cho nhau vào ngày hôm sau tức ngày 18/10/2019. Sau khi có kết quả mở thưởng của xổ số kiến thiết Miền Bắc ngày 17/10/2019, T so sánh, đối chiếu kết quả thì phát hiện M trúng số đề 61 với số tiền là 90.000 đồng, nghĩa là T phải trả thưởng cho M số tiền trúng thưởng là 7.200.000 đồng. Sau khi trừ đi số tiền 350.000 đồng mà M dùng để mua số đề ban đầu thì T phải trả cho M số tiền còn lại là 6.850.000 đồng. Khoảng 19 giờ cùng ngày, T nhắn tin cho M thông báo về việc M trúng số đề 61 với số tiền là 90.000 đồng nhưng M cho rằng M đã trúng số đề 61 với số tiền 110.000 đồng, nên đến 22 giờ 05 phút ngày 17/10/2019, M và T gọi điện thoại liên lạc với nhau để trao đổi về nội dung M trúng số đề 61 số tiền 90.000 đồng hay 110.000 đồng. Nội dung này được ghi âm lại trong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7, màu hồng của T. Kết quả thu giữ thư tín, điện tín phát hiện thấy dữ liệu cuộc gọi từ số thuê báo số 0866.488.690 (đăng ký mang tên Trần Bình T) đến số thuê bao 0975.140.908 (đăng ký mang tên Quản Thị Tú A - con gái của M. Như vậy, tổng số tiền M và T sử dụng để đánh bạc trong ngày 17/10/2019 được xác định là 7.550.000 đồng. T và M chưa kịp thanh toán cho nhau thì bị cơ quan công an phát hiện.

Ngoài ra, T còn khai nhận hành vi bán số đề trước đó cho Nguyễn Văn Ng và Nguyễn Thị M1: Ngày 18/6/2019 Nguyễn Văn Ng sử dụng số điện thoại 0975.773.666 nhắn tin đến số thuê bao của Trần Bình T 0866.488.690 để đặt mua các số lô 86, 68 mỗi số 35 điểm, mỗi điểm là 22.000đ, bộ đề 56 gồm 8 số đề: 01, 10, 06, 60, 56, 65, 15, 51 mỗi số là 50.000đ; số đề 86,68 mỗi số là 100.000đ. Tổng số tiền Ng mua số lô, số đề của T là 2.140.000đ. Các số lô, đề Ng mua của T trong ngày 18/6/2019 không trúng số nào, Ng cũng chưa trả tiền đề cho T.

Ngày 12/10/2019, Nguyễn Thị M1 (Sinh năm 1974; trú tại: tổ dân phố TL, phường BH, Phổ Yên, Thái Nguyên) nhắn tin đặt mua của Trần Bình T số đề 09 là 30.000 đồng, số lô 19, 91 mỗi số là 10 điểm, mỗi điểm là 23.000 đồng. Tổng số tiền mà M1 mua số lô, đề của T ngày 12/10/2020 là 490.000 đồng. Sau khi có kết quả xổ số mở thưởng trong ngày, T so sánh kết quả phát hiện Mẫn trúng số đề 09 với số tiền là 30.000 đồng, có nghĩa là T phải trả thưởng cho M1 số tiền là 2.400.000 đồng và trúng số lô 19 là 10 điểm, có nghĩa là T phải trả thưởng cho Mẫn số tiền là 800.000 đồng. Tổng số tiền mà T trả thưởng cho Mẫn là 3.200.000 đồng. Sau khi trừ số tiền gốc M1 đặt mua số lô đề thì T còn phải trả cho Mẫn số tiền là 2.710.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền mà T và M1 sử dụng để đánh bạc ngày 12/10/2019 là 3.690.000đ đồng. Đến ngày 17/10/2019, Mẫn tiếp tục sử dụng số điện thoại 0338.501.674 nhắn tin cho T để đặt mua các số lô, đề gồm: Số lô 42, 46 mỗi số 10 điểm, mỗi điểm là 22.000 đồng, số đề 70, 71, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79, 61 mỗi số 20.000 đồng; Số đề 79, 63 mỗi số là 50.000 đồng. Tổng số tiền mua số lô và đề là: 760.000đ. Sau khi có kết quả xổ số miền Bắc mở thưởng trong ngày xác định Mẫn trúng số đề 61 là 20.000 đồng nên T phải trả cho M1 số tiền là 1.600.000 đồng. Tổng số tiền M1 và T sử dụng để đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô, đề ngày 17/10/2019 là 2.360.000 đồng.

Bản án hình sự sơ thẩm số 128/2020/HS-ST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Bình T, Quản Văn M phạm tội "Đánh bạc”.

- Áp dụng Điều 58, khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Bình T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành bản án. Phạt bổ sung Trần Bình T 15.000.000đ ( mười lăm triệu đồng) nộp Ngân sách Nhà Nước.

- Áp dụng Điều 58, khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Quản Văn M 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành bản án. Phạt bổ sung Quản Văn M 10.000.000đ (mười triệu đồng) nộp Ngân sách Nhà Nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Ng. Quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25/9/2020 bị cáo Trần Bình T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho hưởng án treo. Ngày 11/11/2020, bị cáo đã có đơn xin rút đơn kháng cáo. Tòa án đã thông báo việc bị cáo T rút đơn kháng cáo theo quy định.

Ngày 15/9/2020 bị cáo Quản Văn M kháng cáo xin được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

Phần kết luận tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tóm tắt nội dung vụ án, phân tích đánh giá tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các vấn đề liên quan đến kháng cáo của bị cáo. Đại diện Viện kiêm s át đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng của bị cáo Quản Văn M, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Bình T và Quản Văn M được làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Trước khi mở phiên tòa, bị cáo T đã có đơn xin rút đơn kháng cáo. Tòa án đã ra thông báo về việc bị cáo T rút đơn kháng cáo theo quy định. Tại phiên tòa ngày hôm nay chỉ xem xét kháng cáo của bị cáo M.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo M vắng mặt và có đơn xin hoãn phiên tòa vơi lý do “bị ngã dẫn đến chấn thương cột sống, sau điều trị ra viện tháng 9 năm 2020, nhưng hiện nay bị liệt phải nằm tại chỗ, không đi lại được”. Bị cáo đa được tông đat quyê t đinh đưa vu an ra xet xư hợp lệ. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị cáo. Căn cư điêm c khoan 1 Điêu 351 Bộ luật tố tụng Hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo Quản Văn M.

[2] Về nội dung: Xét lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng từ tháng 06/2019 đến tháng 10/2019, T bắt đầu bán số lô, số đề cho Quản Văn M, Nguyễn Văn Ng và các đối tượng khác thông qua việc sử dụng tin nhắn mua số lô, số đề đến số điện thoại 0866.488.690 của bị cáo. Ngày 17/10/2019, Quản Văn M sử dụng số điện thoại 0975.140.908 nhắn tin đến số điện thoại 0866.488.690 của T để mua số lô, số đề, cụ thể là: Số đề 69, 96 mỗi số là 40.000 đồng; Số đề 13,31,16 mỗi số là 60.000 đồng; Số đề 61 là 90.000 đồng. Tổng số tiền M mua số lô, số đề của T là 350.000 đồng. Sau khi có kết quả mở thưởng của xổ số kiến thiết miền Bắc ngày 17/10/2019, T so sánh, đối chiếu kết quả thì phát hiện M trúng số đề 61 với số tiền là 90.000 đồng, nghĩa là T phải trả thưởng cho M số tiền trúng thưởng là 7.200.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền M và T sử dụng để đánh bạc được xác định là 7.550.000 đồng.

Với hành vi nêu trên, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Quản Văn M về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Quản Văn M, tuy chưa có tiền án tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu, đã hai lần bị xử phạt hành chính cùng về hành vi “Đánh bạc”. Tại cấp phúc thẩm bị cáo có nộp đơn xin được cải tạo tại địa phương có chính quyền địa phương đồng ý xác nhận; ngoài ra bị cáo còn nộp 01 bệnh án thể hiện bị cáo bị ngã thương tích đốt sống, hiện đang nằm một chỗ có khả năng bị liệt không đi lại được. Hội đồng xét xử thấy, bản án sơ thẩm đã đánh giá tính chất vụ án, xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và phạt bị cáo 6 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Đơn xin cải tạo tại địa phương của bị cáo không phải là căn cứ để cấp phúc thẩm chuyển hình thức cải tạo cho bị cáo. Còn bệnh án và tình trạng bệnh hiện nay của bị cáo được xem xét, giải quyết khi đi thi hành án.

[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[5] Các quyết định khác không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo M không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Quản Văn M. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 128/2020/HSST ngày 11/9/2020 của Tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên.

Tuyên bố bị cáo Quản Văn M phạm tội "Đánh bạc”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Quản Văn M 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành bản án.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí: Bị cáo Quản Văn M phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2020/HS-PT ngày 12/11/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:157/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về