Bản án 157/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 157/2019/HSST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại Hội trường, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 152/2019/HSST, ngày 20 tháng 3 năm 2019, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Bùi Tiến M; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không.

- Sinh ngày 09 tháng 7 năm 1984 tại Thái Nguyên.

- Nơi cư trú: Xóm X, xã N, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Chức vụ (Đảng, đoàn thể, chính quyền) trước khi phạm tội: Không; Con ông: Bùi Linh T (Đã chêt); Con bà: Đào Thị D, sinh năm 1949; Gia đình có 6 chị em, bị cáo là con thứ sáu; Vợ: Dương Thi M, sinh năm 1992; Có 03 con: Lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2018.

- Tiền án, tiền sự: Không.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/02/2019). (Có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1958; (Vắng mặt tại phiên tòa).

Nơi cư trú: Tổ X, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 15 phút ngày 26/02/2019, tổ công tác của Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực tổ X, phường T, thành phố T N thi phát hiện môt nam thanh niên có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, đối tượng tự khai họ tên đầy đủ là Bùi Tiến M. Qua kiểm tra, M tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 (môt) gói giấy bạc màu vàng và 02 (hai) gói giấy bạc màu trắng trong lòng bàn tay trái, bên trong mỗi gói đều chứa chất bột dạng cục màu trắng. M khai là Heroine mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Tiến M, và thu giữ vật chứng theo đúng quy định.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của Bùi Tiến M có khối lượng 0,403 gam.

Tại bản Kết luận giám định số 478/KL-PC09 ngày 06/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Bùi Tiến M là chất ma tuý, loại Heroine, có khối lượng 0,403 gam.

Tại cơ quan điều tra, Bùi Tiến M khai nhận: Khoảng 11 giờ ngày 26/02/2019, M đi bộ từ nhà ở xóm X, xã N, huyện Đ H, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực cầu Gia Bảy thuộc phường Đông Bâm, thành phố Thái Nguyên để mua ma túy sử dụng. Tại đây, M gặp và mua 03 gói ma túy Heroine của một nam thanh niên không quen biết với giá 300.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, M cầm 03 gói ma túy ở lòng bàn tay trái và đi bộ về nhà, khi về đến khu vực tổ X, phường T thì bị tổ công tác của Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên.

Vật chứng của vụ án là: 01 bì niêm phong ký hiệu M.

Hiện được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số 158/ CT- VKSTPTN, ngày 19/3/ 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đã truy tố Bùi Tiến M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 11 giờ ngày 26/02/2019, M đi bộ từ nhà ở xóm X, xã N, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên đến khu vực cầu Gia Bảy thuộc phường Đông Bâm, thành phố Thái Nguyên để mua ma túy sử dụng. Tại đây, M găp và mua 03 gói ma túy Heroine của môt nam thanh niên không quen biết với giá 300.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, M cầm 03 gói ma túy ở lòng bàn tay trái và đi bộ về nhà, khi về đến khu vực tổ X, phường T thì bị tổ công tác của Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên.

Tại phần tranh luận, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Bùi Tiến M, đã công bố bản luận tội đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Bùi Tiến M từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy vật chứng: 01 bì niêm phong đúng quy định kí hiệu M (Bì niêm phong chứa chất ma túy).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST nộp ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan.

Bị cáo nói lời sau cùng xin hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo xác định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố là đúng người, đúng tội. Xét thấy lời nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa là tự nguyện, khách quan, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng, biên bản cân xác định trọng lượng, Kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến và những chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định: Hồi 12 giờ 15 phút ngày 26/02/2019, tại tại khu vực tổ X, phường T, thành phố T N, tỉnh Thái Nguyên, Bùi Tiến M có hành vi tàng trữ 0,403 gam Heroine muc đich để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

Như vậy, hành vi của bị cáo Bùi Tiến M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Tiến M vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ... thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam…

Do vậy bị cáo phải chịu hình phạt mà điều luật đã quy định.

- Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền về ma túy của nhà nước, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự của địa phương, ảnh hưởng đến sức khỏe, kinh tế của bản thân bị cáo. Ngoài ra, hành vi của bị cáo còn là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác. Nên cần có hình phạt tương xứng với tội trạng của bị cáo gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Bị cáo Bùi Tiến M không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình năm 2015.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, ông Bùi Linh T là bố đẻ của bị cáo được tặng thưởng huân chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, nghiện ma túy nhưng không chịu cai nghiện trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội chứng tỏ bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật kém.

Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng bị cáo là người nghiện ma túy, tuy nhiên đã không chịu cai nghiện, không chịu lao động, không chịu rèn luyện và ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy, cần có một mức án nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lời bất chính và qua xác M thấy rằng bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để xử lý các vật chứng sau:

Đối với vật chứng là 01 bì niêm phong kí hiệu M (Bì niêm phong chứa chất ma túy) nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Về những vấn đề khác:

Áp dụng Điều 329 Bộ luật TTHS năm 2015 tiếp tục tạm giam bị cáo Bùi Tiến M thời hạn 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm nộp sung quỹ Nhà nước, theo quy định của pháp luật.

Thông báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Trong vụ án này có người bán ma túy cho bị cáo M nhưng không xác định được nhân thân lai lịch nên không xem xét xử lý.

Bởi các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Áp dụng: Điểm c khoản1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luât hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Tiến M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"

Về hình phạt:

Xử phạt: Bùi Tiến M 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Áp dụng: Điều 329 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Quyết định tạm giam bị cáo Bùi Tiến M 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo việc thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong kí hiệu M (Bên trong có chứa ma túy). (biên bản giao nhận vật chứng số 203 ngày 12/3/2019).

Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST sung quỹ Nhà nước.

Quyền kháng cáoBị cáo Bùi Tiến M được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:157/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về