Bản án 157/2019/HS-PT ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 157/2019/HS-PT NGÀY 24/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 371/2018/TLPT-HS ngày 28 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Võ Thị Bích Th; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 430/2018/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B.

Bị cáo có kháng cáo: Võ Thị Bích Th, sinh năm: 198X tại Đồng Tháp; hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; nơi đã cư trú (thuê ở trọ, bị bắt quả tang trong vụ án): Nhà trọ không số, Phòng H, Tổ R, Khu phố A, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở hiện nay (tự khai, không thể hiện có đăng ký tạm trú): Nhà trọ thuộc Tổ W, Khu phố T, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Thợ uốn tóc; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn Tám (chết) và bà Nguyễn Thị Mum; không có chồng; có 01 con sinh năm 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số: 610/2018/TA-LCĐKNCT ngày 15-11-2018 của Tòa án nhân dân thành phố B; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Võ Thị Bích Th là người sử dụng trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp). Ngày 20/6/2018, Th đến khu vực gần cầu chữ Y, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh, mua của người thanh niên tên H (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp với giá 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng). Th mang gói ma túy trên về phòng trọ H, cất giấu trong hộp gỗ màu đen để trên nền nhà dưới gầm tủ, để sử dụng dần.

Khong 11 giờ 35 phút ngày 29/6/2018, tại địa chỉ trên, Công an thành phố B phát hiện quả tang; thu giữ: 01 (một) gói ny-lon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, thu giữ trong hộp gỗ màu đen (Th khai là ma túy tổng hợp – hàng đá), niêm phong có chữ ký của Võ Thị Bích Th, kí hiệu M; 01 (một) cân tiểu ly điện tử đã bị hỏng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam Sung (số thuê bao 0984.292.4XX số Imei: 3534150830408XX/01) và 500.000 đồng của Th không liên quan đến hành vi phạm tội.

2. Kết luận giám định:

Tại Kết luận giám định số: 344/PC54-GĐMT ngày 04/07/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Tinh thể màu trắng chứa trong mẫu M gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 5,2285 gam, loại Methamphetamine.

3. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 430/2018/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, đã quyết định tuyên bố bị cáo Võ Thị Bích Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g, Khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Th 05 (năm) năm tù. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

4. Kháng cáo:

Ngày 21 tháng 11 năm 2018, bị cáo Võ Thị Bích Th kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm:

Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; xác định cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; mức án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Võ Thị Bích Th có hành vi tàng trữ 5,2285 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm g, Khoản 2, Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Về kháng cáo:

2.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Cấp sơ thẩm xác định đúng và đầy đủ, cụ thể: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt và đang phải lao động để nuôi con nhỏ; thuộc các trường hợp được quy định tại các Điểm s, Khoản 1 và Khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Cấp phúc thẩm: Bị cáo không cung cấp được tình tiết mới.

2.3. Về hình phạt:

Bị cáo Võ Thị Bích Th là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy; cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Bản án hình sự sơ thẩm đã xem xét và đánh giá toàn bộ vụ án, đã xử phạt bị cáo 05 (năm) năm tù là thỏa đáng và phù hợp; do đó, kháng cáo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Đối với phần trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm a, Khoản 1, Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Bích Th;

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 430/2018/HS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố B.

1. Hình phạt:

Áp dụng Điểm g, Khoản 2, Điều 249; Điểm s, Khoản 1 và Khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Võ Thị Bích Th 05 (năm) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn tù tính từ ngày vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù.

2. Về án phí: Bị cáo Võ Thị Bích Th phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Quyết định của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HS-PT ngày 24/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:157/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về