Bản án 157/2019/HNGĐ-ST ngày 21/03/2019 về ly hôn giữa anh P và chị T

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 157/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2019 VỀ LY HÔN GIỮA ANH P VÀ CHỊ T

Ngày 21 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 602/2018/TLST-HNGĐ ngày 26-12-2018 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 04-3-2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Thanh P, sinh năm 1976; Nơi cư trú: Xóm 3, xã NV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Chị Lại Thị Thu T, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Xóm 3, xã NV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.

(Anh P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 21-12-2018, bản tự khai ngày 07-01-2019, nguyên đơn là anh Trần Thanh P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Lại Thị Thu T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 05-01-2002 tại Ủy ban nhân dân xã PP, huyện LN, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị sinh sống và lập nghiệp tại xóm 3, xã NV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Quá trình chung sống của vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách của hai vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, kinh tế gia đình khó khăn, cách giáo dục con không đồng nhất. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau, coi thường nhau, mất niềm tin ở nhau. Từ năm 2010 chị T bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở cùng xóm 3, xã NV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định để ở và vợ chồng sống ly thân đến nay, không quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn chị T.

Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là Trần Mai A, sinh ngày 19- 9-2002 và Trần Quang H, sinh ngày 15-7-2005. Anh P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, anh tự thỏa thuận với chị T, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ chung: Anh tự thỏa thuận với chị T, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là chị Lại Thị Thu T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến Tòa làm bản tự khai, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08-01-2019 và biên bản làm việc ngày 05-3- 2019 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đối với ông Lại Văn Bội và bà Nguyễn Thị Khang (bố mẹ đẻ của chị T), ông Bội và bà Khang cho biết: Quá trình chung sống của anh P và chị T có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân xuất phát từ cả hai phía vợ chồng anh chị. Do mâu thuẫn nên chị T về chung sống cùng ông bà và vợ chồng anh chị đã sống ly thân nhiều năm nay. Do mải làm ăn, không nghỉ được công việc nên chị T không sắp xếp được thời gian đến Tòa án để làm việc, tuy nhiên chị cũng có nguyện vọng ly hôn anh P. Về con chung của chị T và anh P thì gia đình tôn trọng nguyện vọng của các cháu về người trực tiếp nuôi dưỡng sau khi bố mẹ ly hôn.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 07-01-2019 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đối với hai cháu Trần Mai A và Trần Quang H (con đẻ của anh P và chị T), hai cháu đều có nguyện vọng được bố trực tiếp nuôi dưỡng sau khi bố mẹ ly hôn.

Ngày 15-3-2019, anh P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh vẫn giữ nguyên yêu cầu giải quyết ly hôn và đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, nhận xét đánh giá:

- Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt Phong.

+ Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt chị T;

+ Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử ly hôn giữa anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T;

+ Giao hai cháu Trần Mai A và Trần Quang H cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng.

+ Về cấp dưỡng nuôi con, chấp nhận sự tự nguyện của anh P sẽ tự thỏa thuận với chị T nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Thanh P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị Lại Thị Thu T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không tham gia phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án xét xử vắng mặt anh P và chị T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 05-01-2002 tại Ủy ban nhân dân xã PP, huyện LN, tỉnh Hà Nam nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống của anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách, quan điểm sống của vợ chồng không hợp, vợ chồng không thống nhất được với nhau về cách nuôi dạy con cái, kinh tế gia đình khó khăn. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi chửi nhau, coi thường nhau và mất niềm tin ở nhau. Từ năm 2010 đến nay, vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa. Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu giải quyết ly hôn với chị T. Đối với chị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án. Gia đình chị T cũng có quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn theo nguyện vọng của chị T. Xét mâu thuẫn giữa anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh P là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T có hai con chung là Trần Mai A, sinh ngày 19-9-2002 và Trần Quang H, sinh ngày 15-7- 2005. Quá trình giải quyết vụ án gia đình chị T cũng nêu quan điểm của chị T về nuôi con chung sau khi ly hôn là đề nghị Tòa án tôn trọng theo nguyện vọng của hai con chung, bản thân anh P có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. các con chung của anh chị đều có nguyện vọng được anh P trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Do vậy, Hội đồng xét xử giao hai cháu Trần Mai A và Trần Quang H cho anh Trần Thanh P trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của con chung sau khi bố mẹ giải quyết ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con, anh Trần Thanh P sẽ tự thỏa thuận với chị T và không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung và công nợ: Anh Trần Thanh P không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết, nếu có tranh chấp thì sẽ được thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí: Anh Trần Thanh P phải nộp án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử cho ly hôn giữa anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T.

2. Về con chung: Giao anh Trần Thanh P trực tiếp nuôi hai con chung là Trần Mai A, sinh ngày 19-9-2002 và Trần Quang H, sinh ngày 15-7-2005.

Về cấp dưỡng nuôi con anh Trần Thanh P sẽ tự thỏa thuận với chị Lại Thị Thu T và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom. Người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Anh Trần Thanh P phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000444 ngày 26-12- 2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ.

4. Quyền kháng cáo: Anh Trần Thanh P và chị Lại Thị Thu T có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HNGĐ-ST ngày 21/03/2019 về ly hôn giữa anh P và chị T

Số hiệu:157/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về