Bản án 156/2019/HSST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 156/2019/HSST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trự sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 160/2019/HSST ngày 19/9/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lý Thị D (tức Thủy), sinh năm 1986; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Đội 10, xã Đ, huyện K, tỉnh H; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Con ông: không xác định, con bà Nguyễn Thị L, có ba con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án tiền sự: Ngày 13/4/2018, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 18 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”(Danh chỉ bản số 0315 lập ngày 13/6/2019, tại Công an huyện T); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/6/2019, tạm giam từ ngày 19/6/2019, hiện đang tạm giam- có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Bị cáo Lý Thị D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 00h 00 ngày 13/6/2019, tại khu vực cầu Ngọc Hồi thuộc xã N, huyện T, thành phố H, tổ công tác đồn Ngọc Hồi, Công an huyện T, thành phố H bắt quả tang Lý Thị D tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của D 01 túi nilon chứa tinh thể màu trắng qua giám định là Methaphetamine có khối lượng 2,512g và 01 viên nén màu hồng qua giám định là Ketamine có khối lượng 0,623g cùng 01 xe mô tô hiệu Wave màu đỏ BKS 89K3-5839, 01 vỏ bao thuốc lá ERA màu xanh, 01 ví giả da đã cũ màu xanh rêu, 01 điện thoại di động OPPO, 01 điện thoại Iphone 6 Plus, và tạm giữ của Lê Văn K người đi cùng D 01 điện thoại Nokia 1280 Lý Thị D khai: Số ma túy này có nguồn gốc là vào khoảng 21h30 ngày 12/6/2019, D đi xe mô tô BKS 89K3-5839 từ thôn H, xã T, huyện K, tỉnh H đến rủ Lê Văn K cùng D lên thành phố H chơi. K chở D lên thành phố H, khi đến khu vực thành phố H, K không biết đường nên D đã thay K điều khiển xe. Khi đến khu vực đường gom dân sinh thuộc xã N, huyện T, thành phố H, D dừng xe và bảo K đứng đợi còn D đi bộ cách vị trí K đứng khoảng 50m gặp và mua của người đàn ông không quen biết 01 túi ma túy đá với gía 500.000đ, người đàn ông này còn đưa thêm cho D 01 viên ma túy « Kẹo ». Sau khi mua được ma túy, D cho ma túy vào vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu ERA, còn viên Kẹo cho vào trong túi xách và quay lại chỗ K đứng đợi, sau đó D chở K đi về Lê Văn K không biết việc D đi mua ma túy và cất dấu ma túy nên cơ quan điều tra không xử lý đối với K.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 89K3-5839 là tài sản của chị Nguyễn Thị V, chị V cho D mượn xe nhưng không biết D dùng xe để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị V.

01 điện thoại di động OPPO, 01 điện thoại Iphone 6 Plus là tài sản của D, D không sử dụng vào việc phạm tội cơ quan điều tra đã lại cho D (anh Lại Văn P nhận lại do D ủy quyền) Chiếc điện thoại Nokia 1280 là của K, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh K.

Tại bản áo trạng số 154/CT-VKSTT ngày 16/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Lý Thị D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận ngày 13/6/2019 tàng trữ trái phép 2,512g Methaphetamine và 0,623g Ketamine. Bị cáo ăn năn hối cải đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo từ 30 - 36 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành 09 tháng tù của bản án số 15/2018/HSST ngày 13/4/2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 39 – 45 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy 2,317g Methaphetamine và 0,488g Ketamine lại sau giám định. Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách màu xanh rêu đã qua sử dụng và 01 vỏ bao thuốc là

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của bị cáo tạ phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, tang vật thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án: Đủ cơ sở kết luận: Ngày 13/6/2019, tại khu vực cầu Ngọc Hồi, xã N, huyện T, thành phố H, Lý Thị D đã có hành vi cất giữ trái phép 2,512g Methaphetamine và 0,623g Ketamine – một chất ma túy độc hại. Với kết quả điều tra chỉ đủ căn cứ chứng minh bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Đối chiếu quy định của pháp luật, bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viễn dẫn là có căn cứ pháp lý.

Ma túy là hiểm họa của xã hội bởi ma túy không chỉ là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh chết người- bệnh AIDS, làm thiệt hại kinh tế, gây suy thoái đạo đức và lối sồng mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm. Đấu tranh phòng chống ma túy là trách nhiệm của mọi người. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do tính chất nguy hiểm của hành vi, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Về nhân thân: Ngày 13/4/2018, bị cáo bị xét xử 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 18 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, án tích này chưa được xóa bị cáo lại tiếp tục phạm tội, phạm tội lần này của bị cáo là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách do vậy buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 9 tháng tù của bản án số 15/2018/HSST ngày 13/4/2018, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh H, tổng hợp với hình phạt của bản án mới, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án Để trừng trị đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội nhân thân của bị cáo. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Khi lượng hình có xem xét bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị cáo là hộ nghèo để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Xem xét thấy bị cáo không có việc làm, bản thân phải chấp hành hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối vợi bị cáo Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 2,512g Methaphetamine và 0,623g Ketamine để thực hiện việc giám định bằng phương pháp phản ứng hóa học, sắc ký lớp mỏng, sắc ký khí (sau khi giám định không thu hồi được số ma túy đã trích), hiện chỉ còn 2,317g Methaphetamine và 0,488g Ketamine là một chất độc hại cần tịch thu tiêu hủy.

01 túi xách màu xanh rêu đã qua sử dụng và 01 vỏ bao thuốc lá ERA màu xanh không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy Lê Văn K đi cùng D, không biết việc D đi mua ma túy và cất dấu ma túy nên cơ quan điều tra không xử lý đối với K là phù hợp quy định của pháp luật.

Xe mô tô BKS 89K3-5839 là tài sản của chị Nguyễn Thị V, chị V cho D mượn xe nhưng không biết D dùng xe để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị V là có cơ sở phù hợp quy định của pháp luật.

01 điện thoại di động OPPO, 01 điện thoại Iphone 6 Plus là tài sản của bị cáo, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội cơ quan điều tra đã lại cho bị cáo (anh Lại Văn P nhận lại do bị cáo ủy quyền) là có cơ sở phù hợp quy định của pháp luật.

Chiếc điện thoại Nokia 1280 là của anh Lê Văn K, cơ quan điều tra đã trả lại cho anh K là có cơ sở.

Bị cáo phải chịu án phí HSST, được kháng cáo bản án theo ĐIều 136,331,333 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

 * Tuyên bố: Bị cáo Lý Thị D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56, khoàn 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lý Thị D 36 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành 09 tháng tù của bản án số 15/2018/HSST ngày 13/4/2019 của TAND huyện K, tỉnh H. Tổng hợp hình phạt chung của hai bản án buộc bị cáo phải chấp hành là 45 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/6/2019.

* Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 BLTTHS 2015. Tịch thu tiêu hủy 2,317g Methaphetamine và 0,488g Ketamine còn lại sau giám định. Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ bao thuốc lá E RA màu xanh, 01 túi xách màu xanh rêu đã qua sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/9/2019)

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thư, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331,333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 156/2019/HSST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:156/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về