Bản án 155/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 155/2019/HS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 118/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2019/QĐXXST – HS ngày 12 tháng 7 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 61/2019/QĐST – HS ngày 26/7/2019 và số 62/2019/ QĐST – HS ngày 26/7/2019 đối với bị cáo:

H và tên: Nguyễn Thanh L, sinh năm 1975. Tại: Cần Thơ. Nơi ĐKHKTT: Khu vực TA, phường T, quận TN, Thành phố Cần Thơ. Trình độ hodj vấ: 3/12. Nghề nghiệp: Buôn bán; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị K (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Thúy H, có 01 con sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/02/2019 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Trường A, sinh năm 1990. Địa chỉ: thị trấn  CT, huyện CT1, tỉnh Trà Vinh; Vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh D; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Thanh L nảy sinh ý định đi tìm tài sản để chiếm đoạt. Để thực hiện ý định, khoảng 8 giờ ngày 19/02/2019, L đón xe buýt đi từ ngã tư BP thuộc thành phố Hồ Chí Minh đi đến Chùa Bà Thiên Hậu thuộc phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương tìm tài sản của người dân đi viếng chùa để sơ hở nhằm trộm cắp. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày 19/02/2019, khi đang ở trong khu vực chánh điện của chùa thì L phát hiện chị Nguyễn Thị Trường A, sinh năm 1990, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thị trấn CT, huyện CT1, tỉnh Trà Vinh có để chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng có ốp lưng màu hồng bên trong ốp lưng có số tiền 360.000 đồng (Ba trăm sáu mươi nghìn đồng) bên trong túi áo khoác bên phải, trên tay đang cầm cây nhang. Liền lúc này, lợi dụng chỗ đông người, L tiến tới áp sát lại bên hông chị A, đợi khi chị A chồm người lên cắm nhang thì L sử dụng tay trái móc vào túi áo khoác của chị A và lấy chiếc điện thoại của chị A. Khi vừa lấy được điện thoại, L định bỏ vào túi c t gi u thì bị anh Nguyễn Thanh D, sinh năm 1991, là khách viếng chùa, phát hiện tri hô và cùng quần chúng nhân dân bắt quả tang Nguyễn Thanh L giao Công an phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Tại Công an phường P, L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên cùng ngày 19/02/2019 Công an phường P đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc cùng đối tượng L và tang vật đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một để giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 42 ngày 21/02/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Dầu Một, kết luận: 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu hồng, loại 32GB, trị giá 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm nghìn đồng); 01 vỏ ốp lưng điện thoại màu hồng, trị giá 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản Nguyễn Thanh L chiếm đoạt là 6.910.000 đồng (sáu triệu chín trăm mười nghìn đồng).

Đối với 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu hồng, loại 32GB; 01 vỏ ốp lưng điện thoại màu hồng và số tiền 360.000 đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng). Quá trình điều tra, ngày 26/02/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 74 trả lại 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7, màu hồng, loại 32GB; 01 vỏ ốp lưng điện thoại màu hồng và số tiền 360.000 đồng (ba trăm sáu mươi nghìn đồng) cho chị Nguyễn Thị Trường A. Hiện tại, chị A không yêu cầu gì đối với Nguyễn Thanh L.

Cáo trạng số 134/CT-VKS-HS ngày 13/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Nguyễn Thanh L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 07 tháng đến 09 tháng t .

Về trách nhiệm dân sự và biện pháp tư pháp: Không đề nghị giải quyết.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là ph hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo ph hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai của bị hại c ng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 19/02/2019, tại Chùa Bà Thiên Hậu thuộc khu x, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Thanh L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động, hiệu Iphone 7 ; 01 vỏ ốp lưng điện thoại màu hồng, cùng số tiền 360.000đ của bị hại Nguyễn Thị Trường A với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 6.910.000 đồng (sáu triệu chín trăm mười nghìn đồng). Do đó, hành vi mà bị cáo Nguyễn Thanh L thực hiện đã đủ yếu tố c u thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây m t trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã b t ch p sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt tương xứng với tính ch t, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trong, bị cáo phạm tội chưa gây thiệt hại về tài sản. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là ph hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu nào khác nên không xem xét giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp: Không có.

[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 08 (tám) tháng tù, thời hạn ch p hành hình phạt t tính từ ngày 19/02/2019.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

4/ Về biện pháp tư pháp: Không có.

5/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 155/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:155/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về