TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 155/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 23 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 946/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 167/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Thế K, sinh năm 1987; thường trú: Số 20, đường Lê Văn Tách, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thanh T, sinh năm 1989; thường trú: Số 20, đường Lê Văn Tách, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Bà Mai Thị N, sinh năm 1964; địa chỉ: Số 20, đường Lê Văn Tách, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 29/6/2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh Lê Thế K và chị Nguyễn Thanh T có thời gian tìm hiểu khoảng 01 năm thì tự nguyện chung sống với nhau và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 09/2014 ngày 30/12/2015.
Sau khi kết hôn, vợ chồng thuê nhà trọ sinh sống tại phường A, thị xã D khoảng 06 tháng thì chuyển về sống cùng bố mẹ anh K ở số 20, đường Lê Văn Tách, khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khi chị T đón mẹ đến sống cùng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, giữa anh K với mẹ chị T, giữa chị T với bố mẹ anh K có nhiều khúc mắc, không hóa giải được dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Hiện nay, vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm, yêu thương nhau. Anh K xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn với chị Nguyễn Thanh T.
Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Anh K, sinh ngày 23/02/2016, hiện đang sống cùng anh K. Khi ly hôn, anh K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Anh Lê Thế K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đối với bị đơn chị Nguyễn Thanh T: Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 17/10/2018 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Nguyên đơn có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, do vậy vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng yêu cầu bị đơn tham gia phiên tòa vào các ngày 06/11/2018 và 23/11/2018 nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Việc giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được xem xét trên cơ sở chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 27/9/2018, người làm chứng bà Mai Thị N trình bày: Bà là mẹ ruột của anh K. Sau khi kết hôn anh K và chị T chung sống cùng bà. Quá trình chung sống, anh K và chị T thường xuyên cãi nhau. Nguyên nhân là do cả gia đình sống chung nên hay xảy ra va chạm, lời qua tiếng lại không được thoải mái. Sau đó, chị T tự ý chuyển ra ngoài sinh sống để con cho anh K chăm sóc. Nay anh K yêu cầu ly hôn, đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Quá trình tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành và tuân theo pháp luật đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do nên Tòa án căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định.
Về nội dung vụ án, đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa vào ngày 06/11/2018 và 23/11/2018 nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung: Anh Lê Thế K và chị Nguyễn Thanh T đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 09/2014 ngày 30/12/2015 tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Anh Lê Thế K xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu, khi anh chị đón mẹ chị T đến sống cùng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do quá trình chung sống hai vợ phát sinh bất đồng quan điểm sống, giữa anh K với mẹ chị T, giữa chị T với bố mẹ anh K có mâu thuẫn không hòa giải được. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân. Tòa án đã xác minh tình trạng hôn nhân tại Hội liên hiệp phụ nữ phường A nhưng Hội liên hiệp phụ nữ không biết nguyên nhân các mâu thuẫn vợ chồng. Quá trình tố tụng, Tòa án đã triệu tập chị T đến Tòa án để hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị T không đến, đồng thời anh K có đơn từ chối hòa giải. Căn cứ vào lời khai của người làm chứng có cơ sở xác định trong cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng và cả hai đều không muốn hàn gắn. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của anh K là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Anh K có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Anh K, sinh ngày 23/02/2016. Khi giải quyết việc ly hôn, Tòa án cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hay mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu Lê Anh K hiện đang sống chung với anh K vẫn phát triển tốt về thể chất, tinh thần. Quá trình tố tụng, chị T không có ý kiến gì về việc anh K yêu cầu được nuôi dưỡng các con chung. Căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giao con chung cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng.
[4] Về cấp dưỡng: Anh K không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của anh K nên Tòa án ghi nhận.
[5] Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quan điểm của Tòa án nên chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lê Thế K phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Lê Thế K về tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn chị Nguyễn Thanh T.
2. Về hôn nhân: Anh Lê Thế K được ly hôn với chị Nguyễn Thanh T (Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 09/2014 ngày 30/12/2015 do Ủy ban nhân dân phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương cấp).
3. Về con chung:
3.1. Giao con chung tên Lê Anh K, sinh ngày 23/02/2016 cho anh Lê Thế K trực tiếp nuôi dưỡng.
Sau ly hôn, anh Lê Thế K và chị Nguyễn Thanh T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.
3.2. Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của anh Lê Thế K không yêu cầu chị Nguyễn Thanh T cấp dưỡng nuôi con.
4. Tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Án phí dân sự sơ thẩm: Anh Lê Thế K phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0020065 ngày 30/8/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
6. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 155/2018/HNGĐ-ST ngày 23/11/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 155/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về