Bản án 154/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 154/2020/HS-ST NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2020/HSST ngày 21 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2020, đối với các bị cáo:

1/ Lê Tấn Ph (Bé); Giới tính: N; Sinh năm: 1994; Tại: Tỉnh Cà Mau; Hộ khẩu thường trú: thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở: phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Sơn nước; Trình độ văn hoá: 00/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Lê S và bà: Phùng Thị H (chết); Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam ngày: 07/3/2020 ( Bị cáo Lê Tấn Ph có mặt tại phiên tòa).

2/ Nguyễn Phước L; Giới tính: N; Sinh năm: 1993; Tại: Tỉnh Sóc Trăng; Hộ khẩu thường trú: huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở: phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Nguyễn Châu Ng (chết) và bà: Trần Thị Ch; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam ngày: 07/3/2020 ( Bị cáo Nguyễn Phước L có mặt tại phiên tòa).

Người tham gia tố tụng khác:

Bị hại: anh Hồ Quốc D, sinh năm 2000 Địa chỉ: quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Ngọc Th, sinh năm 1981 Địa chỉ: quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 04/3/2020, Lê Tấn Ph đến phòng trọ của Nguyễn Phước L tại địa chỉ số phường Linh Xuân, quận Thủ Đức. Ph nói với L là anh Hồ Quốc D ở cạnh phòng trọ của Ph thường xuyên để xe mô tô ở phòng trọ không có người trông coi nên Ph rủ L lấy trộm tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, L đồng ý. Khoảng 13 giờ cùng ngày, L điều khiển xe mô tô biển số 68M3-7832 của Ph chở cả hai về phòng trọ của Ph. Ph kêu L lấy kìm bẻ khoen cửa phòng trọ anh D để lấy trộm tài sản nhưng không được, Ph đến tiệm sửa chữa máy móc của anh Trần Ngọc Th tại đầu hẻm 911, Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức mượn máy cắt sắt để cắt khoen cửa phòng trọ anh D và lấy trộm xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60M1- 3624 rồi mang xe về cất giấu tại phòng trọ của L chờ mang đi tiêu thụ. Đến ngày 06/3/2020, anh D đến Công an phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức trình báo sự việc. Qua truy xét đến ngày 07/3/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã đưa Lê Tấn Ph và Nguyễn Phước L về làm việc, thu giữ vật chứng là chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60M1-3624 của anh Hồ Quốc D tại phòng trọ của L phường Linh Xuân, quận Thủ Đức.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức, Lê Tấn Ph và Nguyễn Phước L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Ngày 24/4/2020, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu anh Hồ Quốc D một xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh biển số 60M1-3624, số máy: HC08E – 0369892, số khung: 08092Y -369717.

Đối với 01 điện thoại Iphone 5S, màu trắng, sim số 0945.754749 thu giữ của bị cáo Lê Tấn Ph không liên quan đến vụ án, ngày 06/4/2020 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Thủ Đức đã trả lại cho ông Lê Sơn là cha của bị cáo Lê Tấn Ph.

Tại bản Cáo trạng số 141/CT-VKS ngày 20/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố các bị cáo Lê Tấn Ph, Nguyễn Phước L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Lê Tấn Ph, Nguyễn Phước L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức đã truy tố. Các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát Ph biểu và kết luận: Giữ nguyên quyết định truy tố các các bị cáo Lê Tấn Ph, Nguyễn Phước L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt: Bị cáo Lê Tấn Ph từ: 09 tháng đến 01 năm tù giam, bị cáo Nguyễn Phước L từ: 06 tháng đến 09 tháng tù giam, vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận hoặc bào chữa gì, lời sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của các bị cáo như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 04/3/2020, Lê Tấn Ph và Nguyễn Phước L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô biển số 60M1-3624 của của anh Hồ Quốc D tại địa chỉ phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, đem về cất giấu tại phòng trọ của L thì bị bắt giữ cùng vật chứng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 466/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 12/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận: xe mô tô nhãn hiệu Honda, số loại Wave màu xanh biển số 60M1-3624, số máy: HC08E – 0369892, số khung: 08092Y -369717 có trị giá 6.800.000 đồng.

Với hành vi đó, có đủ căn cứ kết luận các bị cáo Lê Tấn Ph, Nguyễn Phước L đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với anh Trần Ngọc Th khi cho Nguyễn Phước L mượn máy cắt sắt, anh Thịnh không biết L dùng máy cắt sắt cùng với Lê Tấn Ph thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên không có căn cứ xử lý.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử khi lượng hình cần xem xét cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu.

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Bị hại anh Hồ Quốc D đã nhận lại tài sản là một xe mô tô nhãn hiệu Honda số loại Wave màu xanh biển số 60M1-3624, số máy: HC08E – 0369892, số khung:

08092Y -369717, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Rossino biển số 68M3-7832, số máy LC152FMH 702749, số khung WCH2MN6H 002749. Xác minh xe mô tô trên do anh Ngô Hoàng N (hộ khẩu thường trú: huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang) là chủ sở hữu. Khoảng 3/2020 anh N đã bán lại xe mô tô trên cho 01 thanh niên tên Đạt (không rõ lai lịch). Lê Tấn Ph khai nhận xe mô tô trên là do Ph mua lại của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) làm cùng công trình xây dựng vào tháng 03/2020 với giá 1.000.000 đồng, không có giấy tờ mua bán. Bị cáo Lê Tấn Ph sử dụng xe vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Tuyên bố các bị cáo Lê Tấn Ph (Bé), Nguyễn Phước L phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2- Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 - Xử phạt bị cáo Lê Tấn Ph: 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước L: 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2020.

3- Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Rossino kiểu dáng wave màu xanh, biển số 68M3-7832, số máy LC152FMH 702749, số khung WCH2MN6H 002749.

(Vật chứng tại Phiếu nhập kho số NKT2020/158 ngày 19/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức).

4- Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Mỗi bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2020/HS-ST ngày 26/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:154/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về