Bản án 154/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 154/2020/HS-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 151/2020/TLST-HS ngày 19/6/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2020/QĐXXST-HS ngày 30/6/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức Th; Sinh năm 1984; Giới tính; Nam; HKTT và nơi ở: Thôn Nhì, xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Đức Th1; Con bà: Đỗ Thị T; Vợ: Đinh Thị V; Bị cáo có 04 con (Con lớn nhất sinh năm 2010, con nhỏ nhất sinh năm 2020); Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Trích lục tiền án: 01 tiền án: Bản án số 293/2017/HSST ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xử phạt Nguyễn Đức Th 18 tháng tù, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong án phạt tù, ra trại ngày 15/10/2018 (Chưa được xóa án tích);

Tiền sự: Không;

Danh bản số: 231, lập ngày 18/3/2020, tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội;

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 08/3/2020, tổ công tác Đại đội 2, tiểu đoàn Cảnh sát cơ động số 1, Trung đoàn cảnh sát cơ động, Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại khu vực cầu vượt Mễ Trì, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, phát hiện Nguyễn Đức Th đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS: 18Y2-7012 có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác bên trái của Th đang mặc cất giấu 01 túi nilông màu xanh kích thước khoảng 11cm x 7cm, bên trong có 01 gói giấy kích thước khoảng 3cm x1,5cm có chứa chất bột màu trắng, nghi là ma túy. Tại chỗ, Th khai: 01 gói bị thu giữ là Heroine, Th cất giấu để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải Th cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, để điều tra làm rõ.

Vật chứng tạm giữ của Th gồm có: 01 túi nilông màu xanh, kích thước khoảng 11cm x 7cm, bên trong có 01 gói giấy kích thước khoảng 3cm x1,5cm bên trong có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy; 01 điện thoại nhãn hiệu SamSung, lắp sim thuê bao số: 0985321184; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS: 18Y2-7012, số máy: 5C63380512, số khung: RLCS5C630AY380459;

Quá trình điều tra xác định: Trưa ngày 08/3/2020, Th đang ở bãi xe của Công ty cứu hộ Minh Đức, Đại lộ Thăng Long, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì nhận được cuộc gọi qua mạng xã hội Zalo của bạn xã hội tên Nam (không rõ họ tên, địa chỉ) rủ lên thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên để sử dụng ma túy. Do Th là đối tượng nghiện ma túy (Heroin) nên khoảng 18 giờ cùng ngày, Th điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS: 18Y2-7012 lên thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Khi Th đi đến đầu thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên thì Nam đón và đưa Th vào một căn nhà bỏ hoang (Th không nhớ địa chỉ), Nam lấy Heroin ra để cả hai cùng sử dụng, sau khi sử dụng xong Th xin Nam một ít Heroine và gói trong giấy trắng, gói ngoài là túi nilông màu xanh rồi cất vào túi áo khoác bên ngực trái để mang về Hà Nội sử dụng. Khoảng 21 giờ 15 phút cùng ngày, Th điều khiển xe máy quay về Hà Nội, đến đường gom Đại lộ Thăng Long khu vực Cầu vượt Mễ Trì, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội thì bị lực lượng Cảnh sát cơ động, Công an thành phố Hà Nội dừng xe kiểm tra, phát hiện bắt giữ cùng vật chứng.

Tại Kết luận giám định số: 2015/KKGD-PC09 ngày 17/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,034 gam./.” Đối với người đàn ông tên Nam cho Th ma túy và sử dụng ma túy (như Th khai không rõ họ tên địa chỉ). Nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Đức Th khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số: 135/QĐ-VKSNTL ngày 16/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Nguyễn Đức Th về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều luật quy định:

“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;” Tại phiên tòa:

Bị cáo Th thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và kết luận: Bị cáo Th đã bị kết án về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 293/2017/HSST ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, đã chấp hành xong án phạt tù, ra trại ngày 15/10/2018. Ngày 08/3/2020 bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, là dấu hiệu định tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Th về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo sau khi phạm tội và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Th từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong Heroine có chữ ký của Nguyễn Đức Th và các thành phần tham gia niêm phong, do phòng PC09- Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau khi giám định, là vật cấm tàng trữ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước phương tiện phạm tội của bị cáo: 01 điện thoại SamSung vỏ màu đen, gắn sim số thuê bao 0985321184, mặt màn hình bị rạn, tại thời điểm bàn giao máy không bật được nguồn nên không kiểm tra được IMEI; Trả lại bị cáo 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, BKS: 18Y2-7012, số máy: 3380512, số khung: 380459.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 08/3/2020, tại khu vực Cầu vượt Mễ Trì, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Đức Th có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,034 gam, với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Cảnh sát cơ động, Công an thành phố Hà Nội kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Ngày 12/9/2017, Nguyễn Đức Th bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 18 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong án phạt tù, ra trại ngày 15/10/2018, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, là dấu hiệu định tội theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Hành vi nêu trên của bị cáo Th đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố bị cáo Th về tội danh và khung hình phạt như đã viện dẫn, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp với pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm những quy định của Nhà Nước về chế độ quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 293/2017/HSST ngày 12/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, đã chấp hành xong án phạt tù, ra trại ngày 15/10/2018, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, là dấu hiệu định tội theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, nên không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xét thấy sau khi phạm tội và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ 0,034gam Heroine, căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Th từ 12 tháng đến 15 tháng tù, là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong Heroine có chữ ký của Nguyễn Đức Th và các thành phần tham gia niêm phong, do phòng PC09- Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau khi giám định , là vật cấm tàng trữ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại SamSung vỏ màu đen, gắn sim số thuê bao 0985321184, mặt màn hình bị rạn, tại thời điểm bàn giao máy không bật được nguồn nên không kiểm tra được IMEI; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, BKS: 18Y2-7012, số máy: 3380512, số khung: 380459, là phương tiện phạm tội của bị cáo, là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí: Bị cáo Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức Th 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/3/2020.

Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong Heroine có chữ ký của Nguyễn Đức Th và các thành phần tham gia niêm phong, do phòng PC09- Công an thành phố Hà Nội hoàn trả sau khi giám định ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại SamSung vỏ màu đen, gắn sim số thuê bao 0985321184, mặt màn hình bị rạn, tại thời điểm bàn giao máy không bật được nguồn nên không kiểm tra được IMEI; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu đỏ đen, BKS: 18Y2-7012, số máy: 3380512, số khung: 380459 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng số: 171, lập ngày 17/6/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo Th phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

424
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2020/HS-ST ngày 17/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:154/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về