Bản án 154/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 154/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 21 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 458/2020/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 132/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Kh; Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Đinh Thị Thùy L; Địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10 tháng 3 năm 2020 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, anh Nguyễn Văn Kh (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 135 ngày 21 tháng 12 năm 2011. Sau khi cưới, vợ chồng sinh sống và đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Tân Lập, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không tin tưởng nhau nên thường xảy ra cãi mắng, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đinh Thị Thùy L.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn Kh khai anh và chị Đinh Thị Thùy L có một con chung tên là Nguyễn Thị P sinh ngày 22 tháng 11 năm 2012. Hiện con tên P đang Kh mạnh, phát triển bình thường và do anh đang trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp ly hôn, anh đề nghị tiếp tục được nuôi con tên Nguyễn Thị P. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh đề nghị để anh và chị Đinh Thị Thùy L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn Kh khai anh và chị Đinh Thị Thùy L không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị Đinh Thị Thùy L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không trình bày quan điểm của mình.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng. Về việc giải quyết nội dung vụ án thì đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Cho ly hôn giữa Anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L. Giao con chung tên Nguyễn Thị P sinh ngày 22 tháng 11 năm 2012 cho anh Nguyễn Văn Kh trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L tự thỏa thuận giao nhận cho nhau. Về tài sản chung vợ chồng do Tòa án không thụ lý giải quyết khi ly hôn nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng. Anh Nguyễn Văn Kh vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, chị Đinh Thị Thùy L đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L được xác lập theo Giấy chứng nhận kết hôn số 135 ngày 21 tháng 12 năm 2011 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không tin tưởng nhau nên thường xảy ra va chạm. Mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài và trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên anh Nguyễn Văn Kh xin ly hôn với chị Đinh Thị Thùy L. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Văn Kh với chị Đinh Thị Thùy L.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L có 01 con chung tên là Nguyễn Thị P sinh ngày 22 tháng 11 năm 2012. Khi ly hôn anh Nguyễn Văn Kh đề nghị được tiếp tục nuôi con chung. Chị Đinh Thị Thùy L không trình bày quan điểm. Tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự thể hiện anh Nguyễn Văn Kh có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung tốt, con chung đang do anh Nguyễn Văn Kh nuôi dưỡng, Kh mạnh và phát triển bình thường và con Nguyễn Thị P có nguyện vọng ở với bố. Vì vậy áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên là Nguyễn Thị P sinh ngày 22 tháng 11 năm 2012 cho anh Nguyễn Văn Kh trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh Nguyễn Văn Kh trình bày để tự thỏa thuận và chị Đinh Thị Thùy L không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Văn Kh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Nguyễn Thị P sinh ngày 22 tháng 11 năm 2012 cho anh Nguyễn Văn Kh trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L tự thỏa thuận giao nhận cho nhau.

3. Về tài sản chung:Anh Nguyễn Văn Kh và chị Đinh Thị Thùy L không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Nguyễn Văn Kh phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng anh Nguyễn Văn Kh đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng tại Biên lai số 0002070 ngày 26 tháng 6 năm 2020; Anh Nguyễn Văn Kh đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn Kh, chị Đinh Thị Thùy L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 154/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:154/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về