Bản án 154/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về việc yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 154/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ VIỆC YÊU CẦU LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 506/2019/TLST-HNGĐ ngày 29/8/2019 về tranh chấp: “Yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:158/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 10 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số:133/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11/11/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1984 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 06, ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Ông Phan Văn C, sinh năm: 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR – VT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/8/2019, bản khai và biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn bà Đỗ Thị H trình bày:

* Về hôn nhân: Bà Đỗ Thị H và ông Phan Văn C chung sống với nhau từ năm 2001 nhưng đến năm 2006 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Phú Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai mai mối hay ép buộc. Trước khi kết hôn bà H và ông C có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 02 năm và được hai bên gia đình đồng ý nhưng không tổ chức lễ cưới.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn nhưng vợ chồng tự dàn xếp được. Đến năm 2016, vợ chồng lại bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay, mặc dù đã có gắng nhưng không thể nào khắc phục được mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau; ông C là chồng nhưng không quan tâm chăm sóc gia đình. Cuộc sống vợ chồng từ đó không còn hạnh phúc như trước, bà H đã khuyên ông C nhiều lần nhưng ông C vẫn không thay đổi. Ngoài ra, ông C còn có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và có con riêng với người này, việc này bà H không trình bày trong đơn khởi kiện vì sợ ảnh hướng đến ông C.

Từ năm 2016 cho đến nay, bà H và ông C sống ly thân không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến chuyện tình cảm. Bà H đã chuyển về huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang để sinh sống còn ông C vẫn sống tại xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà H và ông C không còn, hôn nhân không thể kéo dài thêm được nữa nên bà H yêu cầu ly hôn với ông C.

* Về con chung: Bà H và ông C có 02 con chung là Phan Bảo D và Phan Bảo T, cùng sinh ngày 02/11/2007. Cả hai con chung đang ở với bà H, bà H có nguyện vọng nuôi dưỡng cả hai con chung và tự nguyện không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con.

* Về tài sản chung và nợ chung: bà H không yêu cầu tòa án giải quyết.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án; các thông báo về việc mở phiên họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử cho ông Phan Văn C, để ông C thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhưng ông C đều vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.

- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, tại phiên tòa nguyên đơn vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng theo quy định. Bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể là vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà H được ly hôn ông C. Về con chung, giao cả hai con chung cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng, bà H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét nên ghi nhận. Về phần tài sản chung và nợ chung: bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Bà Đỗ Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Phan Văn C và yêu cầu giải quyết về con chung. Ông C có nơi cư trú tại xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Đỗ Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt theo quy định; bị đơn ông Phan Văn C vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H và ông C theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 12, quyển số 01 ngày 25/01/2006 của Ủy ban nhân dân xã Phú Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xác định, hôn nhân của bà H và ông C là hợp pháp. Sau khi kết hôn, bà H và ông C chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà H trình bày là do vợ chồng bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Giữa hai vợ chồng không còn tiếng nói chung nên cuộc sống của hai vợ chồng không còn hạnh phúc như trước. Ngoài ra ông C có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và có con riêng. Bà H đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn của hai vợ chồng nhưng không được. Hiện nay, bà H và ông C đã sống ly thân không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến tình cảm.

[4]. Qua xác minh cho thấy, trong thời gian bà H và ông C chung sống tại địa phương thì bà H và ông C có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông C có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và có con riêng với người phụ nữ này. Hiện tại bà H và ông C sống ly thân, bà H chuyển về Phú Quốc sinh sống ,ông C vẫn sống tại xã Bình Châu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Nay bà H yêu cầu ly hôn thì đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết, địa phương không có ý kiến.

[5] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông C đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt nên áp dụng Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông C.

[6]. Về con chung: Bà H và ông C có 02 con chung là Phan Bảo D và Phan Bảo T, cùng sinh ngày 02/11/2007. Cả hai con chung đang ở với bà H, bà H có nguyện vọng nuôi dưỡng cả hai con chung.

Xét yêu cầu của bà H thì thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, bà H là người trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và qua làm việc với cháu Duy và cháu Thanh thì cả hai đều có nguyện vọng sống với bà H nên giao cả hai con chung cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo sự phát triển toàn diện của con theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về yêu cầu cấp dưỡng, bà H tự nguyện không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, ông C không đến tòa và không có thể hiện ý kiến của mình về các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết, nếu sau này ông C có yêu cầu thay đổi người nuôi con thì làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

[7]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về án phí: Bà Đỗ Thị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 và các Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình;

Căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 35; Điều 39 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử: :

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H, bà H được ly hôn với ông Phan Văn C.

2. Về con chung: Bà Đỗ Thị H và ông Phan Văn C có 02 (hai) con chung là Phan Bảo D và Phan Bảo T, cùng sinh ngày 02/11/2007. Bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và tự nguyện không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông C không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên; người không trực tiếp nuôi dưỡng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đỗ Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Đỗ Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ bà H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000422 ngày 29 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Bà H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, ông C không phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên Tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 154/2019/HNGĐ-ST ngày 28/11/2019 về việc yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:154/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về