TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 154/2018/HS-ST.NGÀY 24/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Nhà văn hóa khu 4, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa lưu động xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 143/2018/HSST ngày 31/7/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 150/2018/QĐXXST-HS ngày 13/8/2018 đối với bị cáo:
BÙI VĂN Y, sinh năm: 1988 tại Hòa Bình; nơi cư trú: thôn Quáng Giữa, xã Đông P, huyện C, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa:9/12; dân tộc: Mường; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Xuân L, sinh năm: 1960 và bà: Bùi Thị L, sinh năm: 1963; có vợ chị: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1988 và 01 con - sinh năm: 2009; tiền án, tiền sự: không; biện pháp ngăn chặn: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/5/2018, chuyển tạm giam từ ngày 08/5/2018 đến nay tại Trại tạm giam Kim Chi- Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Cao Th, sinh năm: 1960.
Trú tại: khu 2, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Anh Nguyễn Huy D, sinh năm: 1992.
Trú tại: thôn Thanh Liễu, xã T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23h00’ngày 04/5/2018, tại cửa nhà nghỉ Hilton khu 2, phường T, thành phố H, Công an phường T, thành phố H kiểm tra bắt quả tang BÙI VĂN Y đang cất giấu trái phép 01 túi nilon bọc bên ngoài bằng băng dính đen, kích thước (1,5x1,5)cm, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng. Y khai nhận là ma túy tổng hợp (dạng đá) cất giấu để sử dụng. Quá trình bắt giữ có sự chứng kiến của ông Nguyễn Cao Th ở khu 2, phường T và anh Nguyễn Huy D ở thôn Thanh Liễu, xã T, thành phố H.
Quá trình điều tra đã làm rõ: BÙI VĂN Y có sử dụng chất ma túy tổng hợp. Khoảng 22h30’ngày 04/5/2018, Y đang ở phòng trọ tại số 28/4/202
Ngô Quyền, phường T, thành phố H thì có bạn là Hiếu (không rõ họ, địa chỉ) đến rủ đi chơi. Khi Y và Hiếu đến nhà nghỉ Hilton thuộc khu 2, phường T, thành phố H, Hiếu đưa cho Y 200.000 đồng và bảo Y đứng ở cửa nhà nghỉ đợi khi có người mang ma túy đến thì trả tiền, nhận ma túy để Y cùng Hiếu sử dụng; còn Hiếu đi đón bạn gái. Khi Y đang đứng trước cửa nhà nghỉ Hilton thì có người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) đến đưa cho 01 (một) túi ma túy, Y trả cho người này 200.000 đồng. Khoảng 23h00’cùng ngày, người đàn ông bỏ đi còn Y đang cầm túi ma túy trên tay thì bị Công an phường T, thành phố H kiểm tra. Do sợ hãi, Y đã thả gói ma túy xuống đất. Cơ quan Công an đã thu giữ dưới đất ngay vị trí Y đang đứng 01 túi nilon bọc bên ngoài băng dính màu đen kích thước (1,5 x1,5)cm, bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng trước sự chứng kiến của ông Nguyễn Cao Th và anh Nguyễn Huy D.
Tại kết luận giám định số: 318/KLGĐ-PC54 ngày 07 tháng 5 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng ghi thu của BÙI VĂN Y gửi đến giám định có khối lượng là 0,200 gam, là loại Methamphetamine. Methamphetamine nằm trong Danh mục II, STT: 67, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.
Về vật chứng: Đối với 0,149 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong số: 318/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương đang được quản lý tại kho vật chứng của Công an thành phố H chờ xử lý theo quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Tại Cáo trạng số: 155/CT-VKSTPHD ngày 30 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo BÙI VĂN Y về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ ngu Y quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tu Y bố bị cáo BÙI VĂN Y phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1
Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo BÙI VĂN Y từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/5/2018. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,149 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 318/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương (theo Biên bản giao,nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H ngày 13/8/2018). Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, buộc bị cáo BÙI VĂN Y phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu điều tra khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23h00’ngày 04/5/2018, tại cửa nhà nghỉ Hilton khu 2, phường T, thành phố H, BÙI VĂN Y đang cất giấu trái phép trong người 0,200 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng thì bị Công an phường T, thành phố H phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm tàng trữ, có tác hại lớn đến sức khỏe con người và là ngu Y nhân phát sinh các loại tội phạm khác trong xã hội. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0,200 gam Methamphetamine trong người để sử dụng trái phép là vi phạm pháp luật nhưng với mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Y về tội danh trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền về việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
[3] Xét bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,149 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ thì bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
[6] Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Không làm rõ được người bán trái phép chất ma túy cho BÙI VĂN Y và người tên Hiếu đưa tiền cho Y để mua ma túy nên không có căn cứ xử lý.
[8] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
1. Tuyên bố: bị cáo BÙI VĂN Y phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: bị cáo BÙI VĂN Y 14 (mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/5/2018.
2.Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,149 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) phong bì niêm phong số 318/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương (theo Biên bản giao,nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố H và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H ngày 13/8/2018).
3.Về án phí: buộc bị cáo BÙI VĂN Y phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4.Về quyền kháng cáo: bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên Y án sơ thẩm./.
Bản án 154/2018/HS-ST ngày 24/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 154/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về