TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 154/2018/DS-PT NGÀY 28/09/2018 VỀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN, SỨC KHỎE, DANH DỰ VÀ NHÂN PHẨM
Ngày 28 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 102/2018/TLPT-DS ngày 30 tháng 8 năm 2018 về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DS-ST ngày 25 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 166/2018/QĐ-PT ngày 12 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Ấp TQ, xã ĐT, huyện AB, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).
- Đồng bị đơn: Anh Nguyễn Minh Nh, sinh năm: 1980 và chị Thị Hồng L, sinh năm: 1979. Cùng địa chỉ: Ấp TQ, xã ĐT, huyện AB, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Minh Nh: Chị Thị Hồng L, sinh năm: 1979. Cùng địa chỉ: Ấp TQ, xã ĐT, huyện AB, tỉnh Kiên Giang (Có mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Phạm Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Phạm Thị L trình bày:
Vào khoảng 12 giờ trưa, ngày 30/5/2017, khi chị đi mua đồ ăn ở chợ TB trên đường về đến đoạn cầu XB, thì xe của chị bị xe của anh Nguyễn Minh Nh chạy cùng chiều hướng từ TB, lúc đó xe chị đang chạy thì xe anh Nh từ phía sau chạy vượt lên va quẹt vào xe của chị làm cho xe bị ngã, làm chị bị thương ở chân, ở vùng mặt, làm xe bị hư hỏng ở nhiều chỗ.
Sau khi bị va quẹt thì chị té xuống lộ, nhưng anh Nh không đến hỏi thăm như thế nào mà đi lên xe chạy đi về, do thấy anh Nh là người quen biết ở xóm nên chị không có trình báo Công an xã ĐT hay Cảnh sát giao thông Công an huyện AB đến xem xét giải quyết, mà tự lên xe đi về nhà và đi điều trị thương tích.
Ngày hôm sau thì chị có đến cơ quan của anh Nh công tác gặp anh Nh nói chuyện, thì anh Nh có kêu chị về điều trị thương tích và sửa chữa xe, còn tiền bạc thì anh Nh sẽ trả lại.
Sau đó, chị điều trị thương tích ở cơ sở y tế gần nhà, thời gian điều trị thương tích vùng mặt và chân là hơn một tháng với số tiền điều trị là 4.380.000 đồng và sửa xe hết số tiền 3.625.000 đồng, nhưng sau đó anh Nh cũng như gia đình không có đến hỏi thăm hay nói chuyện bồi thường tiền thuốc hay tiền sửa xe gì cho chị, nên chị có làm đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang giải quyết anh Nh bồi thường cho chị số tiền là 25.000.000 đồng, nhưng Ủy ban nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang chỉ giải quyết anh Nh bồi thường số tiền là 10.000.000 đồng, nên chị không đồng ý mới làm đơn khởi kiện đến Tòa án.
Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết anh Nguyễn Minh Nh bồi thường cho chị số tiền tổng cộng là 23.005.000đ (Hai mươi ba triệu lẻ năm nghìn đồng).
Gồm các khoản tiền cụ thể như sau: Tiền sửa xe là 3.625.000 đồng, tiền thuốc là 4.380.000 đồng, tiền đi thẩm mỹ ba lần là 15.000.000 đồng tại thành phố HCM.
Đối với chị Thị Hồng L là vợ anh Nh thì sau được Ủy ban nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang giải quyết vụ việc chị yêu cầu anh Nh bồi thường, thì chị Thị Hồng L đi rêu rao ở xóm cho rằng giữa chị và anh Nh có ý đồ bất chính với nhau thường xuyên xúc phạm danh dự của chị, cụ thể được thể hiện tại các tin nhắn chị đã cung cấp. Do đó, chị yêu cầu chị Thị Hồng L bồi thường cho chị số tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm là 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
Bị đơn anh Nguyễn Minh Nh trình bày:
Theo nội dung trình bày và yêu cầu của chị Phạm Thị L thì anh không đồng ý.
Về nội dung sự việc thì là vào khoảng 12 trưa, ngày 31/5/2017 (anh Nh xác định là ngày 31/5/2017 chứ không phải là ngày 30/5/2017), anh có điều khiển xe chạy từ hướng chợ TB về TB1 và đến đoạn cầu XB thì lúc đó xe của chị Phạm Thị L chạy sau xe của anh, chị L phía sau chạy vượt lên phải, ngay đoạn lên dốc cầu và va quẹt vào xe của anh làm hai xe bị ngã, sau đó anh đứng dậy dựng xe chị L lên và thấy không có ai bị thương tích gì, nên anh chạy xe về nhà.
Do giữa anh và chị L là người quen biết với nhau nên trong ngày xảy ra sự việc va quẹt xe, khoảng 16 giờ thì chị L có gọi điện thoại cho anh và anh T chồng chị L trực tiếp nói chuyện với anh để hỏi anh về việc xây nhà, mặt chữ A phía trước thì nên dán gạch hay sơn thì anh có trả lời, chứ không nghe nói việc chị L bị thương và xe hư hỏng gì. Ngày hôm sau chị L cũng không có đến Cơ quan anh yêu cầu bồi thường tiền thuốc, tiền xe gì như chị L trình bày.
Sau sự việc này, khoảng hơn 20 ngày sau thì chị L điện thoại cho vợ anh nói là anh và cô Dương Kim L sống ở ấp TQ có quan hệ bất chính với nhau. Vợ anh có hỏi anh và anh có hỏi lại là nghe ai nói thì vợ anh nói là chị L nói lại và chị L nghe một số người khác nói lại như vậy. Từ đó giữa vợ anh và chị L có nhắn tin qua lại và xảy ra mâu thuẫn, nên chị L mới đơn gửi Ủy ban nhân dân huyện yêu cầu anh bồi thường tiền thuốc và tiền sửa xe. Nhưng lại đề cập chuyện giữa anh và cô L có mối quan hệ bất chính với nhau, việc này hoàn toàn không có, còn sự việc va chạm xe giữa anh và chị L thì anh hoàn toàn không có lỗi. Nhưng theo ý kiến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện AB kết luận yêu cầu anh hỗ trợ cho chị L số tiền thuốc và tiền sửa xe là 10.000.000 đồng, nên anh chấp hành theo kết luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, nhưng chị L không đồng ý, nên khởi kiện ra Tòa.
Nay theo yêu cầu của chị L thì anh không đồng ý, anh chỉ đồng ý hỗ trợ cho chị Lệ số tiền thuốc và sửa xe là 10.000.000 đồng như trước đây.
Bị đơn chị Thị Hồng L trình bày: Theo yêu cầu của chị L thì chị không đồng ý bồi thường, chị thừa nhận các bản tin nhắn số điện thoại 0947.522.877 nhắn tin vào điện thoại của chị L là của chị nhắn, nhưng sự việc có nguyên nhân là do chị L cho rằng chồng chị là anh Nh có quan hệ bất chính với cô L, không những trong đơn thưa chồng chị gửi đến Ủy ban nhân dân huyện AB có đề cập chuyện này, mà chị L còn đem sự việc này báo lại cho cha mẹ chồng chị. Trong khi đó bản thân chị là vợ anh Nh nhưng chị chưa nói gì, làm cho hàng xóm đồn đoán cho rằng hạnh phúc gia đình chị không tròn vẹn, hiện tại vợ chồng chị đã ly thân với nhau nên chị giận mới nhắn tin nói như vậy với chị L.
NLC trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh Nh có quen biết với nhau cùng làm việc ở cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện AB nên có biết anh Nh. Còn chị Phạm Thị L thì có biết chị L là do chị L sinh sống ở gần nhà của mẹ chị ở ấp TQ, xã ĐT.
Theo nội dung trong đơn yêu cầu gửi Ủy ban nhân dân huyện AB, chị Phạm Thị ệ có trình bày là khi xảy ra sự việc va quẹt xe giữa chị và anh Nh ở Cầu XB có mặt chị ở đó, việc này hoàn toàn không có. Chị không có chứng kiến việc anh Nh và chị L va quẹt xe với nhau.
Đối với việc chị L trình bày trong đơn cho rằng có thấy xe của chị và xe của anh Nh ở tại nhà trọ Minh Ph ở cảng cá TC là hoàn toàn vu khống chị, giữa chị và anh Nh chỉ quen biết nhau là cán bộ công chức đi làm chung ở cơ quan nhà nước chứ không có quan hệ tình cảm gì khác, chị ệ trình bày như vậy là làm ảnh hưởng đến ủy tín của chị, việc này chị đã làm đơn khởi kiện chị L.
Đối với việc chị L có mâu thuẫn với vợ chồng anh Nh và chị L như thế nào, thì chị không rõ.
Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DS-ST ngày 25 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị L về việc yêu cầu anh Nguyễn Minh Nh bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe với số tiền là 23.005.000 đồng và yêu cầu chị Thị Hồng L bồi thường tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm bị xúc phạm với số tiền là 10.000.000 đồng.
2. Ghi nhận ý kiến của anh Nguyễn Minh Nh đồng ý hổ trợ cho Phạm Thị L số tiền điều trị thương tích và tiền sửa xe tổng cộng là 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần án phí và báo quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27/6/2018, nguyên đơn bà Phạm Thị L có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung: Chị không đồng ý số tiền bồi thường 10.000.000 đồng và tiền hỗ trợ gây tai nạn.
Buộc chị Thị Hồng L phải bồi thường danh dự, nhân phẩm cho chị là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) và anh Nguyễn Minh Nh phải có trách nhiệm trong việc để vợ xúc phạm chị.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Phạm Thị L vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Ngược lại, bị đơn chị Thị Hồng L không đồng ý nội dung kháng cáo của nguyên đơn, yêu cầu giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các đương sự không tự hòa giải với nhau được, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến kết luận vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm và các đương sự từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm nghị án đã thực hiện và chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị L, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về nội dung: Giữa chị Phạm Thị L và anh Nguyễn Minh Nh có xảy ra việc va chạm khi tham gia giao thông làm chị L bị xây xát, có thương tích, nhưng thiệt hại không đáng kể. Việc này cả hai bên đều thừa nhận. Sau khi sự việc xảy ra, các bên tự khắc phục thiệt hại. Chị L tự sửa chữa xe máy, tự điều trị thương tích: Chi phí tiền sửa xe 3.625.000 đồng, tiền điều trị thương tích 4.380.000 đồng.
Sự việc xảy ra, chị L cũng không trình báo các cơ quan chức năng, không lập biên bản hiện trường, không xác định lỗi trong việc điều khiển phương tiện giao thông. Mặc dù có thiệt hại thực tế xảy ra, nhưng không xác định lỗi thuộc về ai, nên không có căn cứ để buộc bồi thường theo yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên, anh Nh tự nguyện hỗ trợ cho chị Lệchi phí điều trị và sửa chữa xe máy 10.000.000 đồng, nên Tòa sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện của anh Nh là thỏa đáng và phù hợp quy định của pháp luật.
Xét kháng cáo của chị L cho rằng chỉ đồng ý số tiền 10.000.000 đồng là tiền bồi thường thiệt hại sức khỏe, thiệt hại tài sản, chứ không đồng ý tiền hỗ trợ gây tai nạn. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng, như phân tích đánh giá nêu trên, khi vụ việc xảy ra các bên không báo với cơ quan chức năng xem xét hiện trường, đánh giá lỗi do bên nào vi phạm quy định Luật giao thông đường bộ, để có căn cứ buộc bồi thường. Nên không thể xem 10.000.000 đồng, anh Nh tự nguyện bồi thường thiệt hại sức khỏe và tài sản được.
Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Nh không đồng ý hỗ trợ cho chị L chi phí điều trị và sửa chữa xe máy 10.000.000 đồng như tại Tòa án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, anh Nh không kháng cáo, nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét.
[2] Ngoài ra, đơn kháng cáo của chị L còn yêu cầu buộc chị Thị Hồng L phải bồi thường danh dự, nhân phẩm cho chị 10.000.000 đồng, chứng cứ gồm các tin nhắn trên điện thoại giữa chị L và chị L. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm là thiệt hại phi vật chất, không thể định lượng được bằng tiền. Nếu trường hợp có đủ căn cứ, thì chỉ buộc công khai xin lỗi. Đối với số tiền 10.000.000 đồng chị L yêu cầu chị L bồi thường là tiền tổn thất tinh thần. Nhưng việc nhắn tin chỉ chị L và chị L với nhau, không phát tán cho người thứ ba, hay nhiều người khác, nên cũng không có việc bị thiệt hại về danh dự, nhân phẩm như chị L yêu cầu bồi thường được. Ngoài các tin nhắn, cũng như ghi âm lời nói của chị L do chị L cung cấp, không được xem là chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, ghi âm không đúng trình tự do pháp luật quy định, chưa được Cơ quan có thẩm quyền giám định. Nên không thể chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại danh dự, nhân phẩm cho chị L được.
Từ những nhận định trên, sau khi thảo luận, Hội đồng xét xử nghị nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chị Phạm Thị L. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DS-ST ngày 25/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
[3] Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc chị Phạm Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản số tiền 3.625.000 đồng, không được chấp nhận, khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Đối với yêu cầu của chị Phạm Thị L về bồi thường sức khỏe, danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm, thì chị Phạm Thị L không phải chịu tiền án phí theo quy định theo điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngà 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Chị Phạm Thị L kháng cáo số tiền 10.000.000 đồng là tiền bồi thường, không phải là tiền hỗ trợ. Tuy nhiên đây chỉ là kháng cáo về mặt từ ngữ, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất không buộc chị L chịu án phí phúc thẩm. Về yêu cầu bồi thường danh dự, nhân phẩm được miễn tiền nộp án phí phúc thẩm, nên hoàn trả tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho chị L.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 584, 589, 590, 592 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 26, 35, 39, 40, 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chị Phạm Thị L.
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 26/2018/DS-ST ngày 25 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
- Phần tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị L về việc yêu cầu anh Nguyễn Minh Nh bồi thường thiệt hại về tài sản, sức khỏe với số tiền là 23.005.000 đồng và yêu cầu chị Thị Hồng L bồi thường tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm bị xúc phạm với số tiền là 10.000.000 đồng.
2. Ghi nhận ý kiến của anh Nguyễn Minh Nh đồng ý hỗ trợ cho Phạm Thị L số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
3. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc chị Phạm Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm với số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007181 ngày 05/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Chị Phạm Thị Lệ không phải nộp thêm.
- Án phí dân sự phúc thẩm:
Hoàn trả lại cho chị Phạm Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005587 ngày 27/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 154/2018/DS-PT ngày 28/09/2018 về yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
Số hiệu: | 154/2018/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về