Bản án 1536/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1536/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 30 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 303/2017/TLST-HN ngày 10 tháng 7 năm 2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4630/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Tsằn A L, sinh năm 1988 Địa chỉ: Đường M, phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Pan Kun N, sinh năm 1971 Địa chỉ: Thành phố Cao Hùng, Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14/6/2017 và các bản tự khai, nguyên đơn bà Tsằn A L trình bày:

Bà và ông Pan Kun N tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2012, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2963 quyển số 15 ngày 08/11/2012.

Sau khi kết hôn, bà ở Việt Nam còn chồng lúc ở Việt Nam lúc về Đài Loan. Cuộc sống chung hạnh phúc bình thường đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng sống xa nhau, việc liên lạc thưa dần, sau đó thì không còn liên lạc với nhau nữa, vợ chồng ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Bà xác định không còn tình cảm với chồng, không muốn tiếp tục cuộc sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: không có Về tài sản chung: không có.

Bị đơn ông Pan Kun N cư trú ở Đài Loan, Tòa án thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp, đã gửi Văn bản thông báo về việc thụ lý và ngày giờ mở phiên họp, phiên tòa vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 296/TB-TA ngày 04/8/2017. Theo nội dung tại Thông báo nêu trên thì thời gian mở phiên tòa lần 1 vào lúc 8g00 ngày 05/6/2018, thời gian mở phiên tòa lần 2 vào lúc 9g00 ngày 04/9/2018. Văn bản đã được Bộ Tư pháp gửi đến Bộ Tư pháp Lãnh thổ Đài Loan. Ngày 26/01/2018, Tòa án nhận được văn bản của Bộ Tư pháp thông báo Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan không thực hiện được ủy thác tư pháp nêu trên do địa chỉ không chính xác.

Bà Tsằn A L có lời khai không cung cấp được địa chỉ khác của ông Pan Kun N và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của tố tụng dân sự về thụ lý vụ án, thủ tục ủy thác tư pháp, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu và thủ tục xét xử vắng mặt tại phiên tòa.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Bà Tsằn A L được ly hôn ông Pan Kun N. Con chung: không có. Tài sản chung không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Tsằn A L đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Pan Kun N cư trú tại Đài Loan; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tại Văn bản số 3469/SNV-LS-QHLS ngày 18/7/2018 của Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh có cung cấp kết quả xác minh địa chỉ cư trú của ông Pan Kun N. Theo đó, ông Pan Kun N có đăng ký thường trú Thành phố Cao Hùng và đây cũng là địa chỉ khai báo khi làm thủ tục kết hôn với bà Tsằn A L.

Căn cứ điểm c Khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005; ngày 25/6/2018, Tòa án có văn bản số 382/TAND-CV gửi Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài Bắc – Đài Loan về việc đăng tải trên cổng thông tin điện tử bản dịch thông báo cho bị đơn về thời gian giải quyết vụ án ly hôn nhưng đến ngày mở phiên tòa, Tòa án không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ của ông Pan Kun N và ông cũng không có mặt tại phiên tòa đến lần thứ 2. Nguyên đơn bà Tsằn A L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Tsằn A L và ông Pan Kun N tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2012, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2963 quyển số 15 ngày 08/11/2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà Tsằn A L thì sau khi kết hôn bà ở Việt Nam còn chồng về Đài Loan sinh sống thỉnh thoảng mới sang Việt Nam thăm vợ. Vợ chồng liên lạc với nhau chủ yếu qua điện thoại. Thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc bình thường đến năm 2014 thì việc liên lạc thưa dần. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng sống xa nhau nên tình cảm lạnh nhạt. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân nên có yêu cầu ly hôn.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn giữa vợ chồng lâm vào tình trạng trầm trọng. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà Tsằn A L.

Về con chung: bà Tsằn A L khai không có.

Về tài sản chung: bà Tsằn A L khai không có. Nếu có tranh chấp các đương sự được quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 465; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật phí và lệ phí;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Tsằn A L được ly hôn ông Pan Kun N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 2963 quyển số 15 ngày 08/11/2012 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: bà Tsằn A L khai không có.

3. Về tài sản chung: bà Tsằn A L khai không có.

Nếu có tranh chấp về con chung, tài sản chung, các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng bà Tsằn A L nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà Tsằn A L đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0047011 ngày 26/6/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà Tsằn A L đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Tsằn A L và bị đơn ông Pan Kun N; bà Tsằn A L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Pan Kun N được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1536/2018/HNGĐ-ST ngày 30/10/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1536/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về