Bản án 153/2018/HS-PT ngày 14/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 153/2018/HS-PT NGÀY 14/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân (viết tắt TAND) tỉnh Thanh Hoá xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 124/2018/TLPT- HS ngày 17 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo Đỗ Đức Nghĩa, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HS-ST ngày 31 tháng 5 năm 2018 của TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Bị cáo kháng cáo: Đỗ Đức N, sinh năm 1986; ĐKNKTT: P310, N7, T3 khu đô thị Đông P, phường Đ, thành phố Thanh Hóa; chỗ ở hiện nay: Số nhà 19b, phố N Sơn 3, phường T, thành phố Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đức Đ và bà Đỗ Thị H; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 21/7/2017, TAND huyện Hoằng Hóa xử phạt 14 tháng 06 ngày tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: ngày 22/3/2007 TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; ngày 23/7/2009, TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 29/7/2016 TAND được miễn trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy “ (do thay đổi pháp luật ); tạm giữ: từ ngày 11/01/2018 đến ngày 17/01/2018; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h15 phút ngày 11/01/2018, nhận được tin báo tố giác tội phạm của quần chúng nhân dân, Tổ công tác của Công an phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa kiểm tra phòng trọ của chị Lê Thị V ở số 02/118 Thành Thái, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa. Tại đây, Đỗ Đức N đã tự giác giao nộp 01 gói ma túy đá mà Nmới mua được cất dấu trong người cho Tổ công tác (kí hiệu M1).

Quá trình điều tra, Tổ công tác còn phát hiện và thu giữ trên giường cạnh vị trí N và Vân ngồi 01 gói ni lon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, kích thước khoảng 3 x 3 cm, Nvà Vân  khai không biết gói nilon này là của ai (Niêm phong ký hiệu M2).

Tại cơ quan điều tra, N khai báo: Do nghiện ma túy nên khoảng 19h ngày 11/01/2018, Nđến khu vực ngã ba ông Tượng, phường Nam Ngạn thành phố Thanh Hóa để tìm mua ma túy. Tại đây, Nđã mua 01 gói ma túy của 01 người đàn ông khoảng 30 tuổi với giá 100.000đ (không biết tên, tuổi, địa chỉ). Sau khi mua được ma túy, Ncất dấu trong người rồi đi đến phòng trọ của Vân và bị bắt quả tang.

Ngày 15/01/2018, phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa giám định và kết luận: Chất tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,316 gam loại Methamphetamin; phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy có trọng lượng 0,030 gam loại Methamphetamin.

Đối với người đàn ông Nkhai đã bán ma túy cho N do không rõ tên, địa chỉ ở đâu nên không có cơ sở xác minh, xử lý.

Đối với Lê Thị Vân là người thuê phòng trọ tại 02/118 Thành Thái phường Đông Thọ thành phố Thanh Hóa, quá trình điều tra không chứng minh được Vân có liên quan đến gói ma túy do Đỗ Đức Ngiao nộp cũng như gói ma túy mà Công an phường Đông Thọ phát hiện, thu giữ trên giường trong phòng trọ của Vân nên không có căn cứ để xử lý.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 113/2018/HSST ngày 31/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa đã Quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Đức N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự (viết tắt BLHS) năm 2015, xử phạt: Đỗ Đức N24 (hai bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và giành quyền kháng cáo.

Ngày 12 tháng 6 năm 2018, bị cáo Đỗ Đức N có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vắng mặt không rút kháng cáo.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự (viết tắt BLTTHS) năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tục tố tụng, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Đỗ Đức N vắng mặt, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử vụ án và không ra bản án không có lợi đối với bị cáo (theo điểm c khoản 1 Điều 351 BLTTHS).

[2] Căn cứ lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, xét xử và các tài liệu, chứng có trong hồ sơ thấy rằng: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 19h ngày 11/01/2018, bị cáo Đỗ Đức Nđã đi đến khu vực ngã ba ông Tượng, phường Nam Ngạn thành phố Thanh Hóa mua 01 gói ma túy của 01 người đàn ông không quen biết với giá 100.000đ, sau đó bị cáo cất dấu gói ma túy trong người rồi đi đến phòng trọ của chị Lê Thị Vân ở số 02/118 Thành Thái, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa thì bị Công an phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa kiểm tra bắt quả tang. Kết quả giám định gói ma túy thu giữ có trọng lượng 0,316 gam, loại Methamphetamin và mục đích cất dấu ma túy trong người để sử dụng, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 1999 như bản án sơ thẩm đã xử là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấy rằng: Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các hành vi phạm tội về ma túy không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, giống nòi mà còn gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế và có nguy cơ gây mất trật tự an toàn cho xã hội, tiếp tay cho tội phạm mua bán trái phép chất ma túy nên cần phải bị xử lý nghiêm minh. Bản thân bị cáo đã bị 04 lần bị xét xử về các hành vi xâm phạm sở hữu và mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, trong đó hành vi “cưỡng đoạt tài sản” bị xét xử ngày 21/7/2017 chưa được xóa án. Do đó khi quyết định hình phạt bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm và đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo là có căn cứ. Mức án đã xử 24 tháng tù là phù hợp và mới đủ điều kiện để cải tạo bị cáo và giáo dục phòng ngừa chung. Tại cấp phúc thẩm, không có tình tiết giảm nhẹ gì mới nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

[4]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ điểm điểm c khoản 1 Điều 351; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Đức N, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 113/2018/HSST ngày 31/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa về hình phạt.

- Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Đức N 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, được trừ 06 ngày tạm giữ (11/01/2018 - 17/01/2018).

-Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2018/HS-PT ngày 14/08/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:153/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về