Bản án 152/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ D, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 152/2020/HS-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 82/2020/HSST ngày 20 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2020/HSST-QĐ ngày 03 tháng 4 năm 2020, đối với bị cáo:

Lê Hoàng T, sinh năm 1980 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: khu phố Q, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 3/12; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; con ông Lê Hoàng V, sinh năm 1956 (chết) và bà Trịnh Thị T, sinh năm 1963; có 01 em ruột, sinh năm 1995; có vợ tên Phạm Thị Bé T, sinh năm 1983 và có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2011; tiền án: Ngày 23/01/2019 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về Tội trộm cắp tài sản, chấp hành án tại Trại giam Công an tỉnh Đồng Nai đến ngày 20/6/2019 được trả tự do; tiền sự: Ngày 07/3/2018 bị UBND phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 14/3/2018 bị UBND phường Bình Thắng, thành phố (thị xã cũ) Dĩ An, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử lý giáo dục tại xã phường thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 05/5/2018 Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giam từ ngày 07/12/2019, có mặt.

- Bị hại:

1. Đỗ Hồng T, sinh năm 1988; địa chỉ: khu phố 2, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Nguyễn Minh T, sinh năm 1982; địa chỉ: khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 02 giờ ngày 07/12/2019 T đi bộ trên các tuyến đường thuộc phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương tìm tài sản. Khi đi đến đoạn đường phía trước cổng Công an và ban chỉ huy quân sự phường B, T đi đến khu tường rào ở phía sau ban chỉ huy quân sự cạnh bên công viên dọc bờ sông và “leo” vào bên trong và đi lên các phòng làm việc của ban chỉ huy quân sự nhưng không tìm thấy tài sản. T đi qua trụ sở Công an phường B vào phòng trực ban hình sự của Công an phường B, nhìn thấy anh Đỗ Hồng T và anh Nguyễn Minh T đang nằm ngủ ở ghế bố, phía trên đầu nằm có 02 điện thoại di động hiệu OPPO F1S của anh T và Iphone 6S plus của anh T. T lẻn vào lấy điện thoại Iphone 6S plus sim số 0909764184, sau đó đi qua các phòng khác nhưng không có tài sản nên T quay lại phòng trực ban hình sự tiếp tục lấy 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S có sim số 0932783688 và 0971676114. Sau khi trộm cắp được tài sản, T đi về phòng trọ tại địa chỉ 281/25 khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương và T tháo sim vứt bỏ vào sọt rác trong phòng trọ và cất 02 điện thoại vào 02 túi áo khoác của T treo tại sào phơi đồ phía trước phòng trọ.

Đến sáng ngày 07/12/2019 anh T và anh T, thức dậy phát hiện mất 02 chiếc điện thoại nên tiến hành quan sát camera an ninh tại trụ sở cơ quan, xác định Lê Hoàng T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và tiến hành bắt khẩn cấp.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại Iphone 6S plus, màu vàng (gold) sim số 0909764184; 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, màu vàng sim số 0932783688 và 0971676114 hiện thu hồi trả lại cho các bị hại.

Theo kết luận định giá tài sản số 297/BB.ĐG ngày 26/12/2019 của Hội đồng định giá thành phố Dĩ An: 01 điện thoại Iphone 6S plus, màu vàng (gold) trị giá 5.500.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, màu vàng trị giá 2.000.000 đồng. Tổng giá trị 7.500.000 đồng.

Tại cáo trạng số 119/CT–VKS ngày 19 tháng 02 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lê Hoàng T về Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Hoàng T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hoàng T không tranh luận, đối đáp gì, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại cơ quan điều tra, bị hại không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Khoảng 02 giờ ngày 07/12/2019, tại trụ sở Công an phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Lê Hoàng T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại Iphone 6S plus, màu vàng (gold) sim số 0909764184, trị giá 5.500.000 đồng của anh Nguyễn Minh T; 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S, màu vàng sim số 0932783688 và 0971676114 trị giá 2.000.000 đồng của anh Đỗ Hồng T, tổng giá trị là 7.500.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 119/CT–VKS ngày 19 tháng 02 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy là ít nghiêm trọng nhưng trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của các bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội trong trường hợp chưa được xóa án tích là tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 07/3/2018 bị UBND phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 14/3/2018 bị UBND phường Bình Thắng, thành phố (thị xã cũ) Dĩ An, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử lý giáo dục tại xã phường thị trấn thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; ngày 05/5/2018 Công an thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

[7] Trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án thu hồi trả lại cho các bị hại và không có yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. [9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Hoàng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/12/2019.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Hoàng T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 152/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:152/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về