Bản án 152/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 152/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 363/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 9 năm 2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 361/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị L, sinh năm 1982 (Có mặt)

Hộ khẩu thường trú: Ấp S, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Chỗ ở hiện nay: Ấp B, xã S, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Võ Văn M, sinh năm 1980 (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp S, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Phan Thị L trình bày: Vào năm 2004, chị và anh Võ Văn M tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thuận Đ, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 14/6/2004. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Mi thường xuyên ăn nhậu không lo cho gia đình vợ con nên vợ chồng đã sống ly thân khoảng 02 năm nay. Trong thời gian ly thân giữa chị và anh M mỗi người có một cuộc sống riêng, vợ chồng không còn quan tâm giúp đỡ lẫn nhau. Do xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị và anh M có 02 con chung là cháu Võ Minh T, sinh ngày 07/01/2005 và Võ Thùy T, sinh ngày 13/02/2014, hiện nay đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung. Chị không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi 02 con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không có tranh chấp nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn anh Võ Văn M đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời anh đến tòa tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và dự phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng anh vắng mặt không có lý do nên không có lời khai cũng như không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị L.

Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị L đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh M không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L về việc xin ly hôn đối với anh Võ Văn M. Về con chung: Giao cháu Võ Minh T và cháu Võ Thùy T cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng. Anh M không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không có tranh chấp. Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phan Thị L yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh Võ Văn M; địa chỉ: Ấp S, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre. Theo xác nhận của Công an xã T thể hiện anh M có đăng ký thường trú và đang sinh sống tại địa chỉ nêu trên nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Võ Văn M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại tòa không có lý do. Do đó, tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Anh M vắng mặt tại tòa không có lý do thì xem như anh đã tự tước bỏ quyền được chứng minh, trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị L và phải chịu hậu quả pháp lý của việc vắng mặt đó. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như các chứng cứ đã thu thập được để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án là phù hợp.

[2.1] Về hôn nhân: Theo chị L trình bày thì chị và anh M kết hôn vào năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 14/6/2004 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Về sau vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh M thường xuyên nhậu nhẹt, không lo làm ăn chăm lo gia đình vợ con nên vợ chồng đã sống ly thân khoảng 02 năm nay. Xét thấy, Tòa án đã tiến hành hòa giải để chị L, anh M đoàn tụ nhưng anh M không đến đã chứng tỏ anh M không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị L. Chị L và anh M không còn chung sống với nhau, vợ chồng đã sống ly thân trong một thời gian dài, mỗi người có một cuộc sống riêng. Tại tòa chị L vẫn kiên quyết xin ly hôn với anh M, không muốn vợ chồng đoàn tụ. Như vậy, có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh M đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh M là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Theo trình bày của chị L và hồ sơ vụ án thể hiện chị L và anh M có 02 con chung là cháu Võ Minh T, sinh ngày 07/01/2005 và Võ Thùy T, sinh ngày 13/02/2014, hiện đang sống với chị. Chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung. Xét thấy, cháu T và cháu T hiện nay đang sống với chị L. Hơn nữa, cháu T cũng có nguyện vọng được sống chung với chị L. Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của các con, đảm bảo sự phát triển bình thường tránh làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của các cháu. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L giao cháu T và cháu T cho chị Liên tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của của Luật hôn nhân và gia đình thì chị L có quyền yêu cầu anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị L tự nguyện không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không có tranh chấp nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Chị L khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết. Đối với anh M vắng mặt không có ý kiến nên Tòa án không xem xét giải quyết. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện khác.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị L phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 147, khoản 3 Điều 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị L đối với anh Võ Văn M.

Chị Phan Thị L được ly hôn với anh Võ Văn M.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Minh T, sinh ngày 07/01/2005 và cháu Võ Thùy T, sinh ngày 13/02/2014 cho chị Phan Thị L trực tiếp trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh M không phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung do chị L tự nguyện không yêu cầu.

Anh M được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị L khai tự thỏa thuận không có tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị L khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phan Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số: 0007317 ngày 25/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 152/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:152/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về