Bản án 15/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Trọng H; sinh ngày: 09/09/1971 tại huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm 2, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Sỹ N và bà Trần Thị C (đều đã chết); vợ: Không (Trước kết hôn với chị Trần Thị C nay đã ly hôn); con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 28/9/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 theo Bản án số 28/2009/HSST. Thi hành án tại Trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh đến ngày 30/08/2010 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Hiện đã chấp hành xong bản án. (Đã xóa án tích);

- Ngày 19/12/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật hình sự 1999 theo Bản án số 161/2014/HSPT. Hiện đã chấp hành xong bản án. (Đã xóa án tích);

- Ngày 28/09/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999 theo Bản án số 28/2017/HSST. Thi hành án tại Trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh đến ngày 07/05/2018 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Hiện đã chấp hành xong bản án. (Đã xóa án tích).

Bị tạm giữ, giam từ ngày 16/12/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Trương Thị B; sinh năm 1996; nghề nghiệp: Làm tóc; trú tại: đường M, tổ dân phố 9, phường T, thành phố H (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Phạm Văn B; sinh năm 1956; nghề nghiệp: Hưu trí; trú tại: đường H, tổ dân phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

- Bà Nguyễn Thị Y; Sinh năm 1976; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú tại: Thôn Y, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 16/12/2020, Phạm Trọng H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 38M1-014.64 (xe của chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1976, trú tại xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh cho H mượn trước đó để sử dụng hàng ngày) đi vào thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh. Đến khoảng hơn 12 giờ cùng ngày khi đi qua nhà ông Phạm Văn B (sinh năm 1956) ở tổ dân phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh thì thấy ông B đang nằm ngủ trên võng, còn ở móc võng có một chiếc áo khoác màu xám của ông B treo nên H đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản lấy tiền tiêu xài cá nhân. H dựng xe bên ngoài và đi vào bên trong lấy chiếc áo khoác rồi đi ra điều khiển xe đi đến khu vực C, thành phố H thì dừng lại. H mở áo khoác vừa lấy trộm tìm kiếm thì thấy bên trong có 01 chiếc điện thoại Nokia 105 màu đen, 01 chiếc ví màu nâu bên trong có số tiền 1.070.000 đồng và 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Văn B. H lấy hết tiền và chiếc điện thoại Nokia 105 màu đen cất vào túi còn chiếc ví và giấy phép lái xe H đã vứt lại bên đường. Sau đó H đi đến một cửa hàng quần áo (không nhớ địa chỉ) lấy số tiền vừa trộm cắp trên mua 02 chiếc áo sơ mi màu trắng với giá 280.000 đồng.

Đến khoảng hơn 13 giờ cùng ngày, H đi đến trước quán cắt tóc đường M thuộc phường T, thành phố H của chị Trương Thị B (sinh năm 1996, trú tại phường T, thành phố H). H thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max màu đen có vỏ ốp hình vân đá xanh của chị B đang sạc pin để trên kệ sát tường nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. H điều khiển xe đi được một đoạn thì quay lại quán thấy chị B đang quay người gội đầu cho khách, H dừng xe và đi vào bên trong quán rút dây sạc lấy trộm chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone Xs Max màu đen của chị B bỏ vào trong túi quần rồi điều khiển xe máy bỏ chạy. Sau khi phát hiện mất tài sản chị Trương Thị B đã trình báo ngay với Cơ quan Công an. Khi Phạm Trọng H đang điều khiển xe đi trên đường M, thành phố H thì bị Công an thành phố Hà Tĩnh phát hiện và bắt giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 47 ngày 18/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Tĩnh kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max màu đen có vỏ ốp hình vân đá xanh có trị giá 11.000.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen trị giá 50.000 đồng; 01 chiếc áo khoác nỉ dài tay màu xám trị giá 50.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai kHnại gì về kết luận nêu trên của Hội đồng định giá tài sản.

Bản cáo trạng số 23/CT-VKS-TPHT ngày 05/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Phạm Trọng H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố Phạm Trọng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Phạm Trọng H từ 12 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ tạm giam ngày 16/12/2020.

Đề nghị xử lý vật chứng vụ án: Trả lại cho bị cáo Phạm Trọng H 02 chiếc áo sơ mi màu trắng và 01 chiếc ví da màu đen.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng hơn 13 giờ 00 ngày 16/12/2020, tại thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, Phạm Trọng H đã lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max màu đen có vỏ ốp hình vân đá xanh trị giá 11.000.000 đồng của chị Trương Thị B. Ngoài ra vào khoảng hơn 12 giờ cùng ngày 16/12/2020, Nguyễn Trọng H còn lấy trộm 1.070.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen trị giá 50.000 đồng; 01 chiếc áo khoác nỉ dài tay màu xám trị giá 50.000 đồng của ông Phạm Văn B. Với tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 12.170.000 đồng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo đang thờ cúng anh trai là Liệt sỹ Phạm Sỹ B nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Đánh bạc”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội nên cần thiết phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy, bị cáo nghề nghiệp, thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Trong vụ án này có chị Nguyễn Thị Y là người cho bị cáo Phạm Trọng H mượn chiếc xe máy biển kiểm soát 38M1-014.64 nhưng không biết Phạm Trọng H sử dụng làm phương tiện trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[6] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là thỏa đáng.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Trương Thị B sau khi nhận lại điện thoại; ông Phạm Văn B sau khi nhận lại điện thoại và số tiền 1.070.000đ (935.000đ do Cơ quan điều tra trả lại và 135.000 do Phạm Trọng H nhờ gia đình bồi thường). Nay không có ai yêu cầu gì thêm. Tòa miễn xét.

[8] Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra thu giữ tại Phạm Trọng H 01 xe mô tô SYM biểm kiểm soát 38M1-014.64, 01 điện thoại Iphone XS Max màu đen có ốp vỏ hình viền đá màu xanh, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen và số tiền 935.000 đồng, 02 chiếc áo sơ mi màu trắng và 01 chiếc ví da màu đen. Hiện điện thoại Iphone XS Max đã trả lại cho chị Trương Thị B; điện thoại Nokia 105 và 935.000 đồng trả lại cho ông Phạm Văn B, xe mô tô nhãn hiệu SYM biển kiểm soát 38M1-014.64 trả lại cho chị Nguyễn Thị Y là phù hợp.

Còn 02 chiếc áo sơ mi màu trắng và 01 chiếc ví da màu đen thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội. Tại phiên tòa bị cáo đề nghị được trả lại. Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 ví da màu nâu và 01 giấy phép lái xe mang tên Phạm Văn B sau khi trộm cắp H đã vứt lại bên đường gần cầu C, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; 332; 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm trọng H phạm tội Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt, Phạm Trọng H 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Phạm Trọng H 02 chiếc áo sơ mi màu trắng và 01 chiếc ví da màu đen.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng thể hiện trong biên bản giao nhận vật chứng lập hồi 08 giờ 30 phút, ngày 08/02/2021 giữa cán bộ Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh và cán bộ Công an thành phố Hà Tĩnh).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc Phạm Trọng H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về