Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:620/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Nguyễn Thị HTổ 11, Khu phố 4, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

2. Bị đơn: Anh Châu Hoàng V, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Tổ 2, Khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tây Ninh.

Chị H, anh V: có đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01/10/2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn – chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Châu Hoàng V chung sống với nhau vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh vào ngày 24/8/2010. Sau khi kết hôn chị và anh V chung sống với nhau tại nhà cha mẹ chồng tại huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Sau này gia đình chồng chuyển về huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh sống nên anh chị cũng chuyển về sống chung. Anh chị sống tại huyện Châu Thành nhưng làm nghề cạo mủ cao su ở huyện Tân Châu nên thường cuối tuần mới về nhà cha mẹ chồng. Anh chị chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh V sử dụng ma túy không lo làm ăn, thường xuyên đánh và đe dọa chị. Chị và anh V ly thân từ năm 2017 đến nay. Đến đầu năm 2020 do anh V sử dụng ma túy bị Công an phát hiện nên đã đưa đi cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện tỉnh Tây Ninh.

Chị xác định tình cảm giữa chị và anh V không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Châu Hoàng V.

Về con chung: Có 02 con chung tên Châu Ngọc C, sinh ngày 15/6/2010 và Châu Nhật D, sinh ngày 06/5/2015. Hiện tại chị đang làm nghề buôn bán tại nhà thu nhập bình quân một tháng từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng nên chị có đủ khả năng để nuôi hai con. Nên chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung, không yêu cầu anh V cấp dưỡng.

Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản khi ly hôn.

Bị đơn – anh Châu Hoàng V trình bày:

Anh cũng thống nhất với lời trình bày của chị Nguyễn Thị H về thời gian hai bên chung sống, có đăng ký kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn và thời gian vợ chồng sống ly thân. Nay chị H yêu cầu ly hôn với anh thì anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Châu Ngọc C, sinh ngày 15/6/2010 và Châu Nhật D, sinh ngày 06/5/2015. Anh đồng ý giao con chung cho chị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản khi ly hôn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H với anh Châu Hoàng V. Về con chung: Giao cháu Châu Ngọc C, sinh ngày 15/6/2010 và cháu Châu Nhật D, sinh ngày 06/5/2015 cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng:

[1] Căn cứ đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn cư trú tại Tổ 2, Khu phố 3, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tây Ninh nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

[3] Chị Nguyễn Thị H và anh Châu Hoàng V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh V.

* Về nội dung:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Châu Hoàng V chung sống với nhau vào năm 2008 là hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh vào ngày 24/8/2010. Nên hôn nhân giữa chị H và anh V là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[2] Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án chị H trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V ham chơi, không lo làm ăn, nghiện ma túy về nhà hay chửi và đánh chị. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu ly hôn với anh V. Phía anh V đang chữa bệnh, học tập, lao động tại Cơ sở cai nghiện tỉnh Tây Ninh và có ý kiến bằng văn bản là đồng ý ly hôn với chị H. Do đó Hội đồng xét xử cho ly hôn giữa chị H và anh V.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Châu Hoàng V có hai con chung tên Châu Ngọc C, sinh ngày 15/6/2010 và Châu Nhật D, sinh ngày 06/5/2015. Hiện cháu Chinh và cháu Dương đang sống cùng chị H. Anh V cũng đồng ý giao cháu Chinh và cháu Dương cho chị H được nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu Chinh và cháu Dương cho chị H được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do chị H không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh tại phiên tòa, xét thấy: Đây là đề nghị có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Châu Hoàng V.

2. Về con chung: Giao hai con chung tên Châu Ngọc C, sinh ngày 15/6/2010 và Châu Nhật D, sinh ngày 06/5/2015 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Châu Hoàng V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu.

Anh Châu Hoàng V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0007567 ngày 06/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Chị H đã nộp xong.

Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 25/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về