Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Ô MÔN, THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 23 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Thanh T, sinh ngày 00/00/1000.

Địa chỉ: Khu vực, phường Châu Văn L, quận Ô, thành phố Cần Thơ.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Duy Kh, sinh ngày 00/02/19.

Địa chỉ: Khu vực, phường Châu Văn L, quận Ô, thành phố Cần Thơ. (Các đương sự có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/01/2021 và quá trình giải quyết, nguyên đơn chị Võ Thị Thanh T trình bày và yêu cầu như sau:

Tháng 4 năm 2017 nguyên đơn và bị đơn xây dựng hôn nhân do tự nguyện thương yêu được cha mẹ đồng ý, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ ngày 13/07/2017. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc nhưng đến năm 2020 thì anh chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Kh thường xuyên gây nợ, chị T có khuyên ngăn và cố nhịn để hàn gắn gia đình nhưng vẫn không có kết quả và đã ly thân từ đó đến nay. Xét thấy không thể nào tiếp tục chung sống với nhau được nữa.

Nay chị Võ Thị Thanh T xin được ly hôn anh Huỳnh Duy Kh.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Huỳnh Võ Khánh B, sinh ngày 03/00/20* (nữ) hiện đang sống chung với nguyên đơn, khi ly hôn chị T xin được nuôi con đến khi trưởng thành, chị T yêu cầu anh Kh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi con tròn 18 tuổi. Trường hợp bị đơn không cấp dưỡng cũng không sao. Nguyên đơn cho rằng nếu bị đơn được nuôi con thì nguyên đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuồi.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Ý kiến trình bày và yêu cầu của bị đơn:

Thống nhất với lời trình bày của nguyên đơn về quá trình hôn nhân. Quá trình chung sống, đến năm 2020 thì anh chị phát sinh mâu thuẫn bất đồng quan điểm trong cuộc sống gia đình, thường xuyên cãi nhau nên mất hạnh phúc và đã ly thân từ đó đến nay. Nhưng vì thương vợ con nên bị đơn xin đoàn tụ, mong vợ tạo cơ hội để vợ chồng hàn gắn hạnh phúc gia đình, lo tương lai cho con.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Huỳnh Võ Khánh B, sinh ngày 03/00/201 (nữ) hiện đang sống chung với nguyên đơn, nếu chị T kiên quyết ly hôn anh K xin nuôi con đến khi trưởng thành, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp chị T nuôi con thì anh Kh đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng đến khi con tròn 18 tuổi.

Về tài sản chung: Thống nhất tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Về nợ chung: Thống nhất không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn và bị đơn trình bày như sau:

+ Về hôn nhân: Chị T và anh Kh thuận tình ly hôn.

+ Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận có một con chung tên Huỳnh Võ Khánh B, sinh ngày 03/00/201 (nữ) hiện đang sống chung với nguyên đơn. Nguyên đơn và bị đơn đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi con đến khi con đủ 18 tuổi. Nguyên đơn cho rằng trường hợp nguyên đơn được nuôi con đến khi đủ 18 tuổi thì bị đơn cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng/tháng hoặc không cấp dưỡng cũng không sao, còn nếu bị đơn được nuôi con thì nguyên đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi. Còn bị đơn cho rằng trường hợp bị đơn được nuôi con đến khi đủ 18 tuổi thì bị đơn không yêu cầu nguyên đơn cấp dưỡng nuôi con chung, còn nếu nguyên đơn được nuôi con thì bị đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng đến khi con đủ 18 tuổi.

+ Về tài sản chung: Nguyên đơn và bị đơn thống nhất tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

+ Về nợ chung: Ghi nhận ý kiến của các đương sự về việc không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Võ Thị Thanh T và anh Huỳnh Duy Kh tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 13/7/2017 nên xác định đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và điều chỉnh. Quá trình chung sống, có phát sinh mâu thuẫn nên chị T khởi kiện yêu cầu ly hôn và nuôi con nên quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”. Do bị đơn có nơi cư trú tại khu vực 0, phường Châu Văn L, quận Ô, TP. Cần Thơ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Xét quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Kh chung sống và có đăng ký kết hôn ngày 13 tháng 7 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đúng quy định pháp luật. Vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay, chị T cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống gia đình, thường bất hòa về tình cảm, anh chị thường xuyên cự cãi nhau, chị T đã dọn ra ngoài sống riêng mấy tháng nay, trong thời gian ly thân anh chị không còn quan tâm chăm sóc đến nhau và không còn tình cảm với nhau nữa nên chị yêu cầu ly hôn với anh Kh. Đồng thời tại phiên tòa anh Kh cũng đồng ý ly hôn với chị T. Xét thấy giữa các đương sự không còn muốn duy trì cuộc hôn nhân này, mâu thuẫn giữa vợ chồng của các đương sự đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Cả hai thống nhất ly hôn nên Hội đồng xét xử ghi nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị T và anh Kh.

[3] Về con chung: Các đương sự khai thống nhất có một con chung là cháu Huỳnh Võ Khánh B, sinh ngày 03/00/201 (nữ), hiện nay đang sống với nguyên đơn, khi ly hôn nguyên đơn và bị đơn đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi con đến khi con đủ 18 tuổi.

Căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:

“…2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con…” 3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.” Căn cứ quy định trên, xét thấy cần phải đánh giá đầy đủ về các điều kiện nuôi dưỡng và quyền lợi của con, nhằm đảm bảo cho việc học tập, giáo dục và phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần của cháu, do đó nên giao cháu Huỳnh Võ Khánh B, sinh ngày 03/00/201 (nữ) cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Bởi lẽ, xét về điều kiện kinh tế thì chị T đủ khả năng nuôi dưỡng cháu B, chị cũng đang trực tiếp nuôi con và đồng thời cháu cũng là nữ nên giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn thống nhất việc bị đơn tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) đến khi con đủ 18 tuổi. Xét đây là sự tự nguyện của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Người không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng con theo các Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì giải quyết thành vụ án khác.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp thì giải quyết thành vụ án khác.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật. Bị đơn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Quyền kháng cáo của các đương sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều:

- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, 55, 56; 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 107, 116 và Điều 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Võ Thị Thanh T và anh Huỳnh Duy Kh.

- Về con chung: Giao cháu Huỳnh Võ Khánh B, sinh ngày 03/00/201 (nữ) cho chị Võ Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Ghi nhận việc anh Kh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 (một triệu năm trăm nghìn) đồng đến khi con đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục nuôi dưỡng. Vì lợi ích của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

- Về án phí hôn nhân, gia đình sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T và anh Kh mỗi người phải nộp 150.000 đồng (Một trăm mươi lăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Đối với chị T được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 011487 ngày 21/01/2021 thì chị T được nhận lại 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Anh Khánh phải chịu số tiền 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

- Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án đươc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về