Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 01/2020/TLST - HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020;

Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2021/QĐ-HPT ngày 04/01/2021.

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thủy T, sinh năm 1995 (Có mặt).

HKTT: Số 5, tổ 19, tập thể Học viện Nguyễn Ái Quốc, phường N, quận C, thành phố Hà Nội.

Nơi cư trú: Số 9, khu biệt thự Đồng Xép, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc Th, sinh năm 1989 (Vắng mặt).

HKTT: Số 579, đường Thiên Đức, khu Đ, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thủy T trình bày: Chị và anh Nguyễn Ngọc Th có được tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn từ ngày 18/10/2018 tại UBND phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Cuộc sống vợ chồng hoà thuận một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm việc anh Thắng thường xuyên uống rượu, chơi bời bên ngoài dẫn đến thường xuyên cãi cọ và anh Th đã có hành động vũ phu đến chị, cuộc sống vợ chồng trở nên căng thẳng. Đến tháng 11/2019 chị phát hiện anh Th có mối quan hệ ngoài hôn nhân nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Nay thấy vợ chồng không còn tình cảm nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Ngọc Th.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Tiến A, 19/3/2020. Hiện con đang ở cùng chị. Ly hôn chị đề nghị nuôi con chung và không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung do cháu Tiến A còn nhỏ, vẫn chưa được 36 tháng tuổi nên cần có sự chăm sóc của mẹ. Hiện chị cũng đang làm tại Công ty TNHH Chí Linh tại KCN Quế Võ, Bắc Ninh vơi thu nhập từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng/tháng. Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung: Không có.

Phía bị đơn là anh Nguyễn Ngọc Th vắng mặt tại phiên tòa. Toà án đã tiến hành xác minh, bà Phan Thị L, sinh năm 1973; HKTT: Số 579, đường Thiên Đức, khu Đ, phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh là mẹ đẻ anh Th xác định anh Th có hộ khẩu thường trú và sống cùng bà tại phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, anh Th hiện đang đi làm tại Hà Nội từ sáng đi sớm đến tối mới về nhà. Địa chỉ làm việc anh Th gia đình không nắm được nên không thể cung cấp cho Toà án. Gia đình nhận thông báo của Toà án và sẽ có trách nhiệm thông báo lại cho anh Thắng.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thủy T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tòa án công bố lời khai, các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án.

Kết quả xác minh tại gia đình bà Phan Thị L là mẹ đẻ anh Nguyễn Ngọc Th xác định: Anh Nguyễn Ngọc Th và chị Nguyễn Thủy T kết hôn năm 2018 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn anh Thắng chị T sống hòa thuận cùng gia đình bà. Đến khoảng tháng 8/2019 thì chị T bỏ về nhà bố mẹ đẻ do chị T cho rằng anh Th có mối quan hệ ngoài hôn nhân khi đi ra ngoài sinh nhật bạn. Gia đình hai bên cũng đã hòa giải, anh Th cũng xuống nói chuyện để đón chị T nhưng chị T vẫn không quay về. Nay chị T làm đơn xin ly hôn anh Th thì chị T, anh Th đã trưởng thành, tự quyết định những vấn đề của bản thân. Gia đình không có ý kiến gì.

Ông Nguyễn Vương L, bà Phạm Hồng H là bố mẹ đẻ chị Nguyễn Thủy T cho biết: Anh Nguyễn Ngọc Th và chị Nguyễn Thủy T kết hôn năm 2018 trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên do thời gian tìm hiểu ngắn nên chị T, anh Th sống chung được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Th thường xuyên đi chơi đến đêm, không quan tâm, chăm sóc và xây dựng gia đình. Chị T nhiều lần về nhà bố mẹ đẻ. Gia đình đã rất nhiều lần động viên và khuyên giải vợ chồng anh Th, chị T. Tuy nhiên, đến tháng 11/2019 thì chị T về nhà ông bà sống, vợ chồng anh Thắng chị T ly thân từ đó đến nay. Từ thời điểm ly thân anh Th cũng nhiều lần xuống để đón mẹ con chị T về. Chị T đã đề nghị anh Th phải thay đổi mới quay về nhưng anh Th chỉ hứa mà bản thân vẫn không có sự thay đổi. Nay chị T vẫn nhất quyết xin ly hôn anh Th thì chị T, anh Th đã trưởng thành, tự có quyết định những vấn đề của bản thân. Gia đình không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tham dự phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về trình tự thủ tục tố tụng dân sự: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi xét xử, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm, đảm bảo nguyên tắc xét xử. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Nguyễn Ngọc Th đã được Toà án triệu tập nhưng vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc, hoà giải công khai chứng cứ cũng như xét xử của Toà án.

Về nội dung: Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thủy T được ly hôn anh Nguyễn Ngọc Th.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thủy T là người trực tiếp nuôi con chung là Nguyễn Tiến A, 19/3/2020. Quyền và nghĩa vụ của người trực tiếp nuôi con, người không trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Vấn đề cấp dưỡng nuôi con và tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thủy T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp, chị Nguyễn Thủy T yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Ngọc Th và giải quyết nuôi con chung khi ly hôn nên quan hệ pháp luật giải quyết trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” Bị đơn anh Nguyễn Ngọc Th có đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay tại phường V, thành phố B, tỉnh Bắc Ninh. Vì vậy, căn cứ Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố B thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Anh Nguyễn Ngọc Th đã được đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thủy T kết hôn với anh Nguyễn Ngọc Th ngày 18/10/2018. Trước khi kết hôn chị T, anh Th đã tự nguyện tìm hiểu và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật được quy định tại các Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và gia đình, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn về kinh tế. Nguyên nhân chị T cho biết là anh Th thường xuyên uống rượu, đi chơi mà không quan tâm đến việc xây dựng cuộc sống chung. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 11/2019 đến nay. Chị T làm đơn xin ly hôn, anh Th không đến Tòa án để hòa giải, cũng không có biện pháp gì đề vợ chồng quay về đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh Th đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần xử cho chị T được ly hôn anh Th.

[2] Về con chung: Chị T, anh Th có 01 con chung là Nguyễn Tiến A, 19/3/2020. Hiện nay con đang ở cùng chị T.

Tại phiên tòa, nguyên đơn đề nghị được nuôi con chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy: Chị T có công việc, thu nhập ổn định và cháu Tiến A chưa đủ 36 tháng tuổi nên căn cứ khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX quyết định giao cháu Tiến A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản, công nợ: Không có.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thủy T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 264, 266 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2006 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thủy T được ly hôn anh Nguyễn Ngọc Th.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thủy T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Tiến A, 19/3/2020. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại thăm nom con chung. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung, công nợ: Không có.

4. Về án phí dân sự: Chị Nguyễn Thủy T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. (Xác nhận chị Nguyễn Thủy T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2019/0000525 ngày 30/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về