Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 310/2020/TLST– HNGĐ ngày 08/12/2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXXST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Hoàng Văn T – sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn V, xã V, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, có lý do)

2. Bị đơn: chị Hoàng Thị K – sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn V, xã V, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/12/2020, bản tự khai nguyên đơn Hoàng Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Hoàng Thị Kh kết hôn vào ngày 14/12/2012 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã V, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân là do không tìm được tiếng nói chung. Hiện tại chị K đang sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại Thôn S, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, vợ chồng sống ly thân hai năm nay, không còn quan tâm đến nhau. Đến nay xác định tình cảm không còn, anh T đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: anh và chị Khen có 02 con chung Hoàng Việt N, sinh ngày 12/8/2013 và Hoàng Việt D, sinh ngày 26/11/2019. Sau khi ly hôn, do điều kiện đang đi làm ăn xa nên anh có nguyện vọng để chị K trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng số tiền: 4.000.000đ (một triệu đồng).

Về tài sản chung và nợ chung: anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa bị đơn Hoàng Thị K nhất trí về thời gian, địa điểm, điều kiện kết hôn với nội dung như anh T đã trình bày. Quá trình vợ chồng chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do anh T vũ phu và có quan hệ với người phụ nữ khác. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 7/2020 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Nay anh T yêu cầu ly hôn, chị không đồng ý.

Về con chung: chị và anh T có 02 con chung như anh T trình bày. Sau khi ly hôn, chị K có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con và yêu cầu anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ chung: chị K xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải, nhưng các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Yên phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử về nội dung vụ án như sau:

Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Về quan hệ hôn nhân giải quyết cho anh T được ly hôn với chị K, về con chung giao chị K trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: anh Hoàng Văn T và chị Hoàng Thị K kết hôn vào ngày 14/12/2013 có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Việc kết hôn này tuân thủ đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

t yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: qua lời khai của các đương sự quá trình chung sống thực tế vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do không hòa hợp trong cuộc sống gia đình, chị K cho rằng anh T có mối quan hệ với người phụ nữ khác, chị K đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Lời khai của các đương sự là phù hợp với nội dung biên bản xác minh của Tòa án tại Thôn V, xã V, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Từ khi anh T có đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân huyện Lục Yên đã tiến hành hòa giải, tại phiên hòa giải nguyên đơn vẫn giữ nguyên đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn. Đối với bị đơn chị K tuy không đồng ý ly hôn, nhưng chị thừa nhận mâu thuẫn và cũng không có biện pháp nào để khắc phục tình trạng hôn nhân.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa anh T và chị K đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn, có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: anh T và chị Kh có 02 con chung Hoàng Việt N, sinh ngày 12/8/2013 và Hoàng Việt D, sinh ngày 26/11/2019. Tại phiên hòa giải các đương sự thỏa thuận nếu ly hôn chị Hoàng Thị K trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, anh Hoàng Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con số tiền: 4.000.000đ/tháng (bốn triệu đồng), mỗi con là 2.000.000đ/tháng. Tại biên bản lấy lời khai, cháu N có nguyện vọng được ở cùng mẹ, mặt khác kết quả xác minh của Tòa án xác định hiện tại con chung đang ở cùng chị K có nơi ở và học tập ổn định tại xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự cũng như nguyện vọng của con chung không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình cần giao hai con chung cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng, là phù hợp.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: anh Hoàng Văn T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 357; 468 của Bộ luật dân sự;

Căn cứ Điểm a khoản 5; điểm b khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: anh Hoàng Văn T được ly hôn với chị Hoàng Thị K.

2. Về con chung: Giao cho chị Hoàng Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chung Hoàng Việt N, sinh ngày 12/8/2013 và Hoàng Việt D, sinh ngày 26/11/2019. Anh Hoàng Văn T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung số tiền: 4.000.000đ (bn triệu đồng)/tháng, mỗi con chung là 2.000.000đ (hai triệu đồng). Thời điểm cấp dưỡng tính từ tháng 02/2021 trở đi cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, chị K có đơn yêu cầu thi hành án mà anh T chậm trả khoản tiền cấp dưỡng thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả; Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận nhưng không được vượt quá lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; nếu không thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: anh Hoàng Văn T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 150.000đ (mt trăm năm mươi nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số AA/2017/0008402 ngày 08/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Anh T còn phải nộp số tiền 150.000đ (mt trăm năm mươi nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: án xử công khai sơ thẩm, chị K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 15/01/2021 về ly hôn

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về