Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 03/03/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 03 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 341/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2020 về “tranh chấp ly hôn và nuôi con ”theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Mộng K, sinh năm: 1992 (có mặt) Địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu

2. Bị đơn: Ông Trần Văn N, sinh năm: 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 10 năm 2020, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trương Mộng K trình bày:

- Về hôn nhân: Bà K tự nguyện chung sống với ông Trần Văn N và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh vào năm 2012. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc vã đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay. Nay nhận thấy không thể tiếp tục sống chung được nữa nên bà K xin ly hôn với ông N.

- Về con chung: Bà K và ông N có 01 con chung tên: Trần Như N, sinh ngày 27/8/2012. Con sống chung với ông N từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Khi ly hôn, bà K đồng ý để con cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con bà K tự thỏa thuận với ông N, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra hiện bà K không mang thai, vợ chồng không có con nuôi

- Về tài sản chung: Trước khi kết hôn không bên nào có tài sản riêng. Tài sản chung hiện nay vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Về nợ: Bà K và ông N không nợ ai cũng không ai nợ lại.

Đối với bị đơn ông Trần Văn N vắng mặt không có lý do.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt làm việc. Căn cứ biên bản xác minh ngày 19/10/2020 của Tòa án xác minh tại Công an xã L xác định: ông Trần Văn N có đăng ký hộ khẩu tại ấp T, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước, ông N đi làm ăn xa, đi đâu làm gì địa phương không biết nhưng thỉnh thoảng có về địa phương.

Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cho ông N theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến, không giao nộp tài liệu chứng cứ và không có mặt theo các thông báo, quyết định của Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh phát biểu ý kiến:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn không chấp hành pháp luật, Tòa án đã tiến hành niêm yết theo luật định. Việc xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công Ki chứng cứ và hòa giải, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị gì về tố tụng.

- Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội Đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Mộng K

+ Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trương Mộng K và ông Trần Văn N.

+ Về con chung: Giao con tên Trần Như N, sinh ngày 27/8/2012 cho ông N nuôi dưỡng.

+ Về cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

+ Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng: Bà Trương Mộng K có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn và giải quyết về nuôi con chung với ông Trần Văn N nên xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Xét ông N cư trú tại xã L, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Bị đơn ông N vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Do đó, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà K và ông N tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 12 ngày 30/01/2012 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Trà Vinh nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà K và ông N là hợp pháp.

[3] Đối với yêu cầu xin ly hôn của bà K, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo đơn khởi kiện và lời khai của bà K trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thì giữa bà K và ông N phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay. Đối với ông N, tại phiên Tòa ông N vắng mặt, trong quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng ông N không đến làm việc cũng như tham gia hòa giải để đưa ra ý kiến và biện pháp hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng. Theo biên bản xác minh của Tòa án xác minh tại địa phương thì hiện ông N và bà K không còn sống chung với nhau. Như vậy, có căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa bà K và ông N đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà K.

[4] Về con chung: Bà K và ông N có 01 con chung tên Trần Như N, sinh ngày 27/8/2012, hiện con sống chung với ông N từ khi bà K và ông N sống ly thân vào tháng 10/2020 đến nay. Khi ly hôn, bà K đồng ý để con cho ông N nuôi dưỡng. Xét trong quá trình giải quyết vụ án ông N không đến làm việc cũng không có văn bản ý kiến về việc nuôi con chung. Đối với cháu N đã đủ 07 tuổi, Tòa án đã phối hợp chính quyền địa phương tiến hành lấy ý kiến của cháu theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng không làm việc được do ông N đã đưa cháu đi nơi khác sinh sống, địa phương không rõ ở đâu. Tuy nhiên theo UBND xã L xác nhận thì cháu N sống với ông N từ khi ông N và bà K sống ly thân, bà K cũng thống nhất sự việc trên. Do đó, xét yêu cầu của bà K về việc tự nguyện giao con cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo cuộc sống ổn định và điều kiện về mọi mặt của con theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Bà K khai không có nên không xem xét.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Tòa án nên chấp nhận.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà K phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trương Mộng K

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trương Mộng K và ông Trần Văn N.

2. Về con chung: Giao con tên Trần Như N, sinh ngày 27/8/2012 cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo luật định.

3. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết

 4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Bà K chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 0001318 ngày 19/10/2020.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 03/03/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về