Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 01/02/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 15/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 01 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở TAND huyện Phú Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 249/ 2020/ TLST - HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc kiện ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 90/ 2020/ QĐXX - ST ngày 19 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/QĐST - DS ngày 14/01/2021giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1981 Bị đơn: Anh Phạm Văn G, sinh năm 1981 Đều HKTT: Thôn X, xã L, huyện X, Thành phố Hà Nội. Chị Th có mặt, anh G vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và những lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Th và anh Phạm Văn G tự nguyện kết hôn vào ngày 18/3/2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thành, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi cưới, chị về chung sống với anh Giáp ngay tại gia đình anh Giáp. Đến năm 2015 thì chị Th và anh G chuyển về thôn Đào Xá, xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội ở và làm ăn từ đó cho đến nay. Quan hệ vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, mỗi người có một quan điểm lối sống khác nhau, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, hơn nữa anh Giáp không quan tâm đến gia đình. Vợ chồng đã ly thân nhiều năm nay không còn quan hệ gì. Nhận thấy tình cảm không còn, hạnh phúc không có, chị đề nghị được ly hôn anh Giáp.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 07/8/2008 và cháu Phạm Minh C, sinh ngày 09/5/2014. Hiện nay cả hai con chung đang ở với chị Th. Ly hôn chị Th xin được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung, không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa giải quyết.

- Về công nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Về phía anh Phạm Văn Giáp:

Quá trình giải quyết vụ án, anh G không đến Tòa làm việc, nên Tòa án kết hợp với UBND xã Hoàng Long, Trưởng thôn Đào Xá đến tận nhà anh G, chị Th tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Giáp vẫn không đến tòa làm việc. Tòa án cũng niêm yết các văn bản tố tụng tại nhà anh Giáp, chị Thanh, UBND xã Hoàng Long, Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên theo quy định của pháp luật.

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng anh Giáp cố tình không đến Tòa làm việc, nên không rõ quan điểm của anh Giáp.

Tại phiên toà: Chị Nguyễn Thị Th giữ nguyên yêu cầu của mình.

Đại diện VKSND huyện Phú Xuyên tham gia phiên toà phát biểu về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về thủ tục tố tụng của Pháp luật TTDS trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng, bị đơn chưa chấp hành đầy đủ nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Th, cho chị Th được ly hôn với anh Phạm Văn G; giao cả 02 con chung là cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 07/8/2008 và cháu Phạm Minh C, sinh ngày 09/5/2014 cho chị Th trực tiếp, nuôi dưỡng, chăm sóc, tạm miễn việc góp phí tổn nuôi con cho anh G và không xem xét quan hệ tài sản chung vợ chồng do chị Th không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng: Mặc dù vào thời điểm Tòa án tiến hành giải quyết vụ án, anh Phạm Văn G vẫn có mặt tại nơi cư trú, Tòa án đã tiến hành giao, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng vẫn không thấy anh G đến Tòa làm việc, nên bị coi là trường hợp bị đơn cố tình không đến Tòa làm việc; vì vậy, không cần sự có mặt của anh Giáp, Tòa án vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Về hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Văn G, tuy là cuộc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ có đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Thành, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, thời gian chung sống với nhau được gần 10 năm, sau đó cả hai không chung sống với nhau nữa, bằng việc anh Giáp không sống chung với chị Th nữa, là một bằng chứng nói lên quan hệ hôn nhân giữa chị Th và anh G tuy không rõ nguyên nhân từ đâu, song đã ẩn chứa những mâu thuẫn, bất đồng hết sức nghiêm trọng.

Do thời gian ly thân đã nhiều năm, mọi níu kéo trở nên vô vọng, tình cảm vợ chồng không còn, phía chị Th quyết định xin ly hôn anh Giáp. Quá trình tố tụng, việc anh Giáp cố tình không chịu đến tòa làm việc không chỉ thể hiện thái độ không tôn trọng cơ quan tố tụng mà ở một góc độ khác còn thể hiện ý thức không mong muốn hòa giải đoàn tụ vợ chồng. Xác minh tại nơi cư trú, chính quyền địa phương cũng xác nhận, mâu thuẫn giữa các bên là không thể hàn gắn và trên thực tế quan hệ hôn nhân thực sự chấm dứt đã nhiều năm nay.

Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Thanh và anh Giáp đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, không còn ý nghĩa. Vì vậy, yêu cầu của chị Thanh xin ly hôn anh Giáp là có cơ sở, nên áp dụng các quy định tại các Điều 51, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 39 của BLDS chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Th, cho chị Th được ly hôn với anh Phạm Văn G.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 07/8/2008 và cháu Phạm Minh C, sinh ngày 09/5/2014. Do anh Giáp không đến Tòa làm việc, nên giao cả hai con chung cho chị Thanh nuôi dưỡng và tạm miễn cho anh Giáp việc góp phí tổn nuôi con.

Về tài sản chung: Do chị Th không yêu cầu giải quyết; quá trình giải quyết vụ án, anh G không đến Tòa làm việc, nên chưa có đầy đủ căn cứ xác định được tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt nên phần tài sản, công nợ của vợ chồng, cần tách ra chưa xét trong vụ án này và sẽ được giải quyết trong vụ án khác nếu có tranh chấp phát sinh .

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Điều 39 Bộ luật dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Phạm Văn G.

2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 07/8/2008 và cháu Phạm Minh C, sinh ngày 09/5/2014. Tạm miễn việc góp phí tổn nuôi con cho anh G đến khi chị Th có yêu cầu hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Anh G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được đối trừ vào khoản tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại biên thu tạm ứng án phí số AE/2010/0005966 ngày 02/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên. Chị Th đã nộp đủ án phí án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2021/HNGĐ-ST ngày 01/02/2021 về ly hôn

Số hiệu:15/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về