TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 11/2020/HS-ST ngày 11 tháng 02 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020; thông báo tạm dừng phiên tòa số 05/TB-TA ngày 12/3/2020 và số 10/TB-TA ngày 01/4/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Anh Th; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 3 năm 1985, tại: Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: LĐPT; Trình độ học vấn: 4/12; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm T, xã Ngh, huyện Ngh, tỉnh N; Tiền án: Ngày 26/10/2017, bị TAND thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 43/2017/HSST). Chấp hành xong ngày 01/12/2018; Tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2009, bị TAND thị xã Thái Hòa, T.Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (BA số 51/2009/HSST ngày 28/9/2009). Đã được xóa án tích; Con ông: Trần Biên C và bà Phạm Thị LGia đình có 3 anh em, bị cáo là con thứ hai. Bị cáo chưa có vợ, con. Bị cáo bị bắt 05/12/2019 hiện đang bị tạm giam tại trại giam Hòa Sơn. Có mặt phiên tòa.
Người bị hại: Ông Trần Văn T- Sinh năm 1989. Địa chỉ: 121 L, phường Kh, quận Ng, Tp. Đ. Vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Tạ Quang H - Sinh năm 1970. HKTT: phường Q, thị xã Th, huyện Ng, tỉnh N. Địa chỉ: Số 68 Đàm Văn L, quận C, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Phương Th – Sinh năm 1955. HKTT: Số 17/42 Phù Hong B, phường Cửa Bắc, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 18 giờ ngày 03/12/2019, Trần Anh Th đến thuê phòng tại nhà nghỉ 103 L để lưu trú. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Thắng đi dạo dọc đường Lê Văn Hđến nhà số 127, Ththấy xe mô tô BKS: 18Z1-2526 của anh Trần Văn T (Chỗ ở: 121 L, P.Khuê M, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng) để tại đây không có người trông coi liền nảy sinh ý định trộm cắp. Th đến gần xe mô tô, thấy phần nắp đầu xe bị hở liền thò tay vào bên trong bức dây khóa điện, đạp máy nổ điều khiển xe đến phòng trọ nhà xe Th Dem (Số 68 đường Đ, Q.Cẩm LTP.Đà Nẵng) gửi cho tài xế nhà xe là anh Tạ Quang H để ngày mai đem về quê rồi đón xe Grab về lại nhà nghỉ. Đến sáng ngày hôm sau (ngày 04/12/2019), Th đến lán trại xây dựng trên đường H, Q.S, TP.Đà Nẵng gặp người tên H (không xác định được nhân thân, lai lịch) để nhận 5.000.000 đồng tiền công rồi quay lại nhà nghỉ chuẩn bị lên bến xe về quê thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên.
Vật chứng và tài sản tạm giữ của Trần Anh Th
- 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, BKS: 18Z1-2526.
- 01 ĐTDĐ hiệu Samsung galaxy M20, màu đen (không kiểm tra bên trong).
- Số tiền 5.980.000 đồng.
Theo Bản KLĐGTS số 78 ngày 06/12/2019 của Hội đồng ĐGTSTTHS Q.Ngũ Hành S thì xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, BKS: 18Z1-2526 trị giá 4.500.000 Quá trình điều tra, Trần Anh Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKS-TPĐN ngày 10/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Trần Anh Th về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố nhà nước vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố Trần Anh Th về tội danh như đã nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Anh Th phạm tội "Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt, Trần Anh Th từ 12 đến 18 tháng tù.
* Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, BKS: 18Z1- 2526 do anh Nguyễn Ph Thđứng tên trong Giấy chứng đăng ký mô tô, xe máy, khoảng tháng 10/2018, anh Thbán lại xe cho anh Trần Văn T với giá 5.000.000 đồng, Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã trả lại cho anh Trần Văn T là có căn cứ.
- Đề nghị HĐXX tuyên trả choTrần Anh Th 01 ĐTDĐ hiệu Samsung galaxy M20, màu đen (không kiểm tra bên trong) và 5.980.000 đồng là tài sản cá nhân của Trần Anh Th.
* Về trách nhiệm dân sự: Anh Trần Văn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên không đề cập đến.
*Đối với anh Tạ Quang H là người Th gửi xe mô tô BKS:18Z1-2526, không biết tài sản Th gửi là tài sản trộm cắp nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng không đề cập hình thức xử lý là đúng pháp luật Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngũ Hành Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bị cáo Trần Anh Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại và các tài liệu điều tra thu thập đầy đủ có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định như sau: Khoảng 18 giờ ngày 03/12/2019, tại trước nhà số 127 đường Lê Văn Hiến thuộc P.Mỹ An, Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng, Trần Anh Th đã trộm cắp của anh Trần Văn T 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, BKS: 18Z1-2526 trị giá 4.500.000 đồng.
Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Trần Anh Th về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy hết sức liều lĩnh và táo bạo bị cáo lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu đã lén lút lấy trộm xe mô tô BKS 18Z1- 2526 với tài sản trị giá 4.500.000đ để bán lấy tiền nhằm mục đích tiêu xài cá nhân. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý, xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.
[4] Xét tính chất vụ án thì thấy, bị cáo còn trẻ có sức khỏe tự tìm kiếm công việc lương thiện để nuôi sống bản thân cũng như góp phần có ích cho xã hội tuy nhiên do lối sống buông thả, không tu dưỡng bản thân, lười lao động, dễ dàng có tiền tiêu xài cá nhân nên đã thực hiện trộm cắp, mặc dù bị cáo nhận thức rõ hành vi này pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý vi phạm, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân tại địa phương. Do vậy cần xử phạt với bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội gây ra nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[5] Xét về nhân thân bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2009, bị TAND thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (BA số 51/2009/HSST ngày 28/9/2009 đã được xóa án tích). Bị cáo có 01 tiền án: Ngày 26/10/2017, bị TAND thị xã Thái Hòa, Tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (BA số: 43/2017/HSST). Bị cáo chấp hành xong bản án này ngày 01/12/2018 đến nay chưa được xóa án tích lại phạm tội, phạm tội lần này là tái phạm, do vậy cần phải áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự qui định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thấy bị cáo đã khai báo thành khẩn, rõ ràng về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình.
[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, BKS: 18Z1-2526 do anh Nguyễn Ph Thđứng tên trong Giấy chứng đăng ký mô tô, xe máy. Khoảng tháng 10/2018, anh Thái bán lại xe cho anh Trần Văn T với giá 5.000.000 đồng, Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng đã trả lại cho anh Trần Văn Tlà đúng nên không đề cập đến.
[6] Đối với 01 ĐTDĐ hiệu Samsung galaxy M20, màu đen (không kiểm tra bên trong) và 5.980.000 đồng là tài sản cá nhân của Trần Anh Th thấy không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Thắng là phù hợp (vật chứng trên hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/02/2020).
[7] Về trách nhiệm dân sự: anh Trần Văn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên không đề cập đến.
[8] Đối với anh Tạ Quang H là người Th gửi xe mô tô BKS: 18Z1-2526, không biết tài sản Th gửi là tài sản trộm cắp nên Cơ quan CSĐT Công an Q.Ngũ Hành Sơn, TP.Đà Nẵng không đề cập hình thức xử lý là đúng pháp luật
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự 200.000đ. Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Anh Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
1/ Căn cứ khoản 1 Điều 173 BLHS; Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Anh Th 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/12/2019.
2/ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên: Hoàn trả 01 ĐTDĐ hiệu Samsung galaxy M20, màu đen (không kiểm tra bên trong) và 5.980.000 (Năm triệu chín trăm tám mươi ngàn đồng) cho bị cáo Trần Anh Th vật chứng trên hiện nay do Chi cục Thi hành án quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/02/2020).
3/ Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ. Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được trích sao bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 15/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 15/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về