Bản án 15/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 24/06/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 24 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Mai Cao S, sinh năm: 1973 tại tỉnh T. Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã P, huyện P, tỉnh B. Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 9/12; tôn giáo: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Xuân C, sinh năm 1945 (đã chết) và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1949; bị cáo có vợ là Hoàng Thị H, sinh năm: 1975; bị cáo có 03, lớn nhất sinh năm 1995 nhỏ nhất sinh năm 1999; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/02/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo:

mặt) Luật sư Ngô Quốc C – Văn phòng Luật sư Q, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B (có Địa chỉ: Quốc lộ 14, phường T, thành phố Đ, tỉnh B.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn T (Đã chết)

- Người đại diện hợp pháp của bị hại 1. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm: 1962 (có mặt) Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện P, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1998 (có mặt) 2. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm: 1991 (có mặt) 3. Anh Mai Cao Thành, sinh năm: 1985 (có mặt) Cùng trú tại địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện P, tỉnh B.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Thủy, sinh năm: 1976 (có mặt)

2. Ông Lê Trọng H, sinh năm: 1980 (có mặt)

3. Ông Bùi Văn T, sinh năm: 1959 (có mặt)

4. Ông Lê Trọng Nam, sinh năm: 1978 (có mặt)

5. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1983 (có mặt)

6. Chị Mai Thị G, sinh năm: 1998 (Vắng mặt) Cùng trú tại địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện P, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mai Cao S và gia đình ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1967 có nhà ở cạnh nhau tại Thôn P, xã P, huyện P, tỉnh B. Quá trình sinh sống, do bờ ranh đất của S vào mùa mưa, nước mưa chảy làm sạt lở ảnh hưởng lối đi của gia đình ông Châu nên đã xảy ra mâu thuẫn với nhau nhưng không trình báo chính quyền địa phương giải quyết. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 08/02/2019, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn H (cả 3 người con ruột của ông C) đang ngồi uống rượu, bia tại sân nhà ông Châu thì T nói chuyện về việc S móc ranh đất làm sạt lở lối đi. Lúc này, S đang nhặt hạt điều gần đó nghe được nên lời qua tiếng lại với T. T đi bộ qua sân nhà S, hai bên tiếp tục lời qua, tiếng lại với nhau dẫn đến xô xát đánh nhau. Trong lúc đánh nhau, T đã cầm một vật trên tay (không rõ đặc điểm) đánh trúng vào mi trên mắt trái của S bị thương làm chảy máu thì H và L đi đến can ngăn T. Trong lúc H và L nói chuyện hòa giải với S thì T bỏ đi đâu không rõ. Sau đó, T quay lại trên tay cầm 01 con dao, dài khoảng 50cm và nói với S“Bây giờ mày muốn gì, tao chém chết mày” rồi tiến lại phía S. S chạy vào trong nhà lấy 01 con dao, loại dao cạo mủ cao su, dài 32,2cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại, dài 16cm, đầu lưỡi sắc hình chữ “V” đi ra trước sân thì H và L sợ không giám can ngăn nên lùi ra xa cách khoảng 5 - 6m. T và S cùng xông vào đánh nhau, thì T bị S cầm con dao cạo mủ cao su đâm trúng 01 nhát vào vùng cổ. S bỏ chạy ra ngã ba đường liên thôn để kêu cứu, T cầm dao đuổi theo S, còn L và H chạy theo sau. T chạy đuổi theo S được khoảng 110,2m thì té ngã gục xuống đất rồi tử vong. L đi về nhà lấy xe mô tô để chở T đi cấp cứu. Sau đó, S quay lại và cầm theo con dao cạo mủ cao su để về nhà, khi vào cách T nằm gục khoảng 05m thì S nhặt lấy 01 con dao rựa, dài 57,0cm, cán tròn bằng tre, lưỡi dài 29,9cm có sẵn ở mặt đường cầm theo. S đi ngang qua chỗ T nằm gục thấy ông C đang ôm giữ T khóc. Do đang tức giận về việc bị T đánh gây thương tích và sợ ông C đánh trả thù nên S đã dùng tay phải cầm con dao rựa, trở sống dao đánh một cái vào cẳng chân phải của T rồi tiếp tục đi vào nhà. Lúc này, L vừa chạy xe mô tô đến thấy S đang cầm 02 con dao trên tay nên hoảng sợ rồi tự ngã xe trên đường. H thấy chị Mai Thị G (chị G là con gái của S) đứng ngoài đường bê tông nên cầm lấy con dao có sẵn bên cạnh T nằm chạy đuổi và ném con dao về phía G nhưng không trúng, rồi H đến nhặt lại con dao quay về chỗ T cùng với L và ông C ngồi khóc. Còn S về đến nhà cất 02 con dao, lấy điện thoại di động đang cắm sặc trong buồng cùng 01 con dao, loại dao bấm, dài 26,7cm, một lưỡi sắc, mũi nhọn, lưỡi dao có chữ “HK ump40” mang theo người rồi điều khiển xe mô tô biển số 93P2 - 016.29 để đến Công an xã P trình báo. Do nhà của S ra Công an xã P chỉ có một đường đất duy nhất nên khi S chạy xe mô tô đến gần chỗ T nằm cách 9,45m thì bị H chặn đầu xe mô tô lại và ôm vật S làm xe mô tô ngã xuống đất. S bỏ chạy quay về hướng nhà và làm rơi con dao bấm xuống đường. S chạy đến cạnh bờ tường rào xi măng của gia đình ông Bùi Văn T thì bị H và L đuổi kịp rồi ôm vật giữ lại. L dùng tay kẹp cổ từ phía sau giữ S để H dùng tay đánh nhiều cái vào vùng mặt S. H chạy quay lại chỗ T lấy con dao chạy đến chém nhiều nhát vào đầu và người của S. L nhặt 01 cục gạch, loại gạch đinh, kích thước 3,5 x 15,5 x 7,5cm có sẵn đánh khoảng 06 cái vào vùng đầu, mặt và người của S. Trong lúc H chém thì S dùng tay nắm giữ được phần lưỡi lưỡi con dao của H và van xin nên H không chém nữa. Sau khi S buông lưỡi dao ra thì H trở sống đánh tiếp khoảng 5 cái trúng vào cánh tay, vùng sườn và lưng của S. Do thấy S chảy máu nhiều và S nói xin tha nên H và L mới dừng lại. H và L vứt bỏ con dao và cục gạch rồi quay lại chỗ T (con dao của H dùng đánh, chém S không thu lại được). Còn S chạy đến bụi chuối cạnh bờ ao của mình cách đó 37,5m để trốn rồi được người dân xung quanh đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh B cấp cứu và điều trị đến ngày 21/02/2019 thì xuất viện.

Kết luận giám định pháp y về tử thi số 44 ngày 18/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, đối với nạn nhân Nguyễn Văn T kết luận: “Vết thương phần mềm vùng cổ gây đứt bán phần động mạch cảnh phải; Đáy vết thương mỏng, sắc, dạng hình hai cánh tam giác; Các tạng trong ngực bụng nhạt màu, không tổn thương; Gãy xương chày phải; Nguyên nhân chết do sốc mất máu cấp do vết thương đứt động mạch cảnh”.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 135 ngày 03/9/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh B đối với Mai Cao S:

“- Sẹo trán phải kích thước 4 x 0,2cm rúm nhẹ; Sẹo gò má phải kích thước 2 x 0,1cm gọn, rúm nhẹ; Sẹo bờ dưới cằm kích thước 4 x 0,1cm gọn. Các sẹo này ảnh hưởng thẩm mỹ và tổng là 11%;

- Sẹo đỉnh trái kích thước 5 x 0,2cm gọn; Sẹo tai trái đường kính 0,5cm mềm; Sẹo cẵng tay trái 1/3 dưới – trước kích thước 5 x 0,3cm dính; Sẹo mặt lòng bàn tay trái: Đốt 3 ngón II kích thước 1 x 0,1cm gọn, khớp đốt 1 – 2 ngón III kích thước 2 x 0,1cm dính, mất gấp đốt 2 +3; Sẹo đốt 3 ngón IV kích thước 1 x 0,1cm mềm; Sẹo đốt 2 ngón III bàn tay phải mặt cạnh gan tay kích thước 3 x 0,2cm dính; Vùng vai trái + vùng cổ không còn dấu tổn thương; Sẹo đỉnh phải kích thước 3,5 x 0,5cm dính và 02 sẹo chẩm phải kích thước 2 x 0,2cm và 2 x 0,2cm. Tổng các vết sẹo này là 10%;

- Sẹo đỉnh - Chẩm phải hình chữ “L” kích thước 8 x 0,5cm dính; 02 sẹo giữa đỉnh kích thước 7 x 0,4cm dính và sẹo hình chữ “T” kích thước 5 x4 0,5cm và 3 x 0,5cm dính; Sẹo mạn sườn trái kích thước 5 x 0,1cm mềm, vết xước da kéo theo sẹo dính kích thước 5 x 0,1cm. Tổng các sẹo này là 7%;

- Sẹo mi trên mắt trái kích thước 2 x 0,1cm mềm là 1%.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 26% Bản kết luận giám định pháp y về ADN số 3.031-2019/ADN ngày 27/4/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế thành phố H, kết luận:

- Hồ sơ ADN các mẫu đủ làm cơ sở so sánh đối chiếu, gồm: Vết nâu trên lưỡi con dao rựa; Vết nâu trên cán con dao rựa; Phần không vết nâu trên cán con dao rựa; Vết nâu trên lưỡi con dao cạo mủ cao su; Phần không vết nâu trên lưỡi con dao cạo mủ cao su; Vết nâu trên lưỡi con dao dạng dao bấm; Vết nâu đỏ tại hiện trường (vị trí số 7); Vết nâu trên lá nguyên vẹn lớn và vết nâu đỏ tại hiện trường (vị trí số 18).

- Hồ sơ ADN các mẫu không đủ làm cơ sở so sánh đối chiếu, gồm: Phần không vết nâu trên lưỡi con dao rựa; Phần không vết nâu trên lưỡi con dao dạng dao cạo mủ cao su và Phần không vết nâu trên cán con dao dạng dao bấm.

- ADN của Nguyễn Văn T có hiện diện trong: Vết nâu trên lưỡi con dao rựa; Vết nâu trên lưỡi con dao cạo mủ cao su thu tại tại ví số 16; Vết nâu trên lá nguyên vẹn lớn.

- ADN của Mai Cao S có hiện diện trong: Vết nâu trên cán con dao rựa; Phần không vết nâu trên cán con dao rựa; Vết nâu trên cán con dao cạo mủ cao su thu tại tại ví số 16; Phần không vết nâu trên cán con dao cạo mủ cao su; Vết nâu trên lưỡi con dao dạng dao bấm; Vết nâu đỏ tại hiện trường (vị trí số 7) và vết nâu trên lá nguyên vẹn lớn và vết nâu đỏ tại hiện trường (vị trí số 18).

Bản kết luận giám định pháp y về ADN số 3.031A-2019/ADN ngày 02/12/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế thành phố H, kết luận:

- Hồ sơ ADN các mẫu không đủ làm cơ sở so sánh đối chiếu: Dấu vết trên cục đá số 01 và dấu vết trên cục đá số 02;

- Không đủ cơ sở kết luận ADN của Mai Cao S hiện diện trong: Dấu vết trên cục đá số 01 và dấu vết trên cục đá số 02;

- Không đủ cơ sở kết luận ADN của Nguyễn Văn L hiện diện trong: Dấu vết trên cục đá số 01 và dấu vết trên cục đá số 02.

Bản kết luận giám định pháp y qua hồ sơ số 409/2019/HS ngày 30/12/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh B đối với thương tích Mai Cao S “Sẹo mi trên mắt trái kích thước 2 x 0,1cm mềm 1%”, kết luận: Sẹo mi trên mắt trái của Mai Cao S có đặc điểm của tổn thương do vật có cạnh sắc tác động gây ra; Theo biên bản thực nghiệm điều tra (từ hình 11 đến hình 35): 02 cục đá (vật chứng 1 và 2) khi tác động vào cơ thể không thể tạo ra được thương tích “sẹo mi trên mắt trái” của Mai Cao S.

Bản kết luận giám định pháp y qua hồ sơ số 284/2019/HS ngày 20/9/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh B kết luận: Con dao cạo mủ (vật chứng giám định số 1) khi tác động bằng phần lưỡi sắc vào cơ thể có thể gây ra được tổn thương vùng hõm ức của Nguyễn Văn T; Con dao rựa (vật chứng giám định số 02) khi tác động bằng phần sống dao vào cơ thể có thể gây ra được tổn thương mặt trước trong cẳng chân phải của Nguyễn Văn T”.

- Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B vẫn giữ nguyên Bản cáo trạng số 06/CTr-VKS ngày 28/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước và Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mai Cao S phạm tội “Giết người”. Áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Mai Cao S mức án từ 07 đến 08 năm tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo với đại diện hợp pháp của bị hại.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy những vật chứng không còn giá trị sử dụng sau (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0000135 ngày 02/3/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước):

- Lá cây khô dính vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 01 - 01 áo màu đỏ, cam dính máu.

- 01 khăn vải màu trắng dính nhiều dấu vết màu nâu đỏ.

- 01 mảnh vải màu xanh tre trên cổ nạn nhân, thu tại vị trí số 01.

- Dấu vết màu nâu đỏ trên phanh tay của xe mô tô biển số 93P2-016.29.

- 01 gương chiếu hậu xe mô tô có dấu vết gãy mới, mặt gương dạng tròn đường kính 09cm.

- Nhiều sợi tóc màu đen, không có chân tóc nằm rải rác tập hợp trên đám, kích thước 18x10cm, thu tịa vị trí số 4.

- 01 viên gạch 02 lỗ, loại gạch đinh, có dấu vết mới, kích thước lớn nhất còn lại đo được 3,5x15,5x7,5cm, trên gạch dính nhiều vết màu nâu đỏ và nhiều sợi lông, tóc màu đen .

- 01 mảnh gạch có dấu vết vỡ mới, kích thước lớn nhất 8x7,5x3,5cm, dính nhiều vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 7.

- Lá cây dính vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 7.

- Dấu vết màu nâu đỏ và nhiều sợi lông, tóc màu đen bám dính trên gốc cây và cành cây, thu tại vị trí số 10.

- Lá cây chuối khô bám dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 11.

- Dấu vết màu nâu đỏ thu tại vị trí số 15.

- 01 ổ khóa bằng kim loại, màu vàng, hiệu “VIETTIEP” trên khóa dính màu nâu đỏ, trên khoe cửa thông phòng bến và kho.

- 01 dây xạc điện thoại di động màu trắng, trên dây dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 19.

- 01 con dao, loại dao bấm, dài 26,7cm, một lưỡi sắc, mũi nhọn, lưỡi dao có chữ “HK ump40”, lưỡi dao dài 11,9cm, rộng nhất 2,2cm, cán dao dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 3.

- Lá cây dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 14.

- 01 cục đá có hình không rõ dạng, kích thước lớn nhất 21x14,5x8cm, thu tại vị trí số 20.

- 01 cục đá có hình không rõ dạng, kích thước lớn nhất 11,5x8,5x4,5cm, thu tại vị trí số 21.

- 01 tuýp nhựa đựng dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 18.

- 01 con dao, loại dao rựa dài 57cm, một lưỡi sắc, lưỡi bằng kim loại dài 29,9cm, rộng nhất 6,7cm, trên lưỡi dao có dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 16.

- 01 một con dao, loại dao cạo mủ cao su, dài 32,2cm, lưỡi bằng kim loại dài 16cm, có đặc điểm đầu lưỡi sắc, dạng chữ “V’, bản rộng nhất 1,5cm một cạnh chữ “V” dài 1,8cm và cạnh còn lại là 2,5cm, cán dao bằng gỗ, trên dao dính nhiều vết màu đỏ, thu tại vị trí số 16.

- Mẫu máu thấm gạc, tóc, chất bẩn trên 10 10 kẽ ngón tay.

- 01 quần vải màu đen, thu của tử thi Nguyễn Văn T.

- 01 áo thun ngắn tay màu vàng, trước ngực có chữ “HALLA”.

- 01 quần đùi màu xanh, ốn quần bên trái phía trước có chữ “Adidas”, hai bên hông quần có sọc dọc trắng.

- 01 đôi dép nhựa màu đen, thu giữ của Nguyễn Văn L.

- 01 quần đùi vải màu đen, trên quần có dính chất màu nên đỏ, thu của Nguyễn Văn H.

- 01 đôi dép kẹp, màu đen, thu tịa vị trí số 5 và 6.

- 01 đôi dép màu đỏ, hiệu “RAW”, có size 7, thu tại vị trí số 13.

- 01 đôi dép kẹp, màu xanh.

Đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ bồi thường tổng số tiền là 139.000.000 đồng trừ đi số tiền đã khắc phục là 55.000.000 đồng còn phải tiếp tục bồi thường 84.000.000 đồng và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Mai Cao S đồng ý bồi thường các khoản theo yêu cầu của đại diện bị hại. Luật sư bào chữa cho bị cáo Mai Cao S đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mai Cao S phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 vì giữa gia đình bị cáo với gia đình bị hại có mâu thuẫn lâu dài, tương quan lực lượng bị hại nhiều hơn bị cáo, bị hại dùng dao tấn công bị cáo sau khi đánh bị cáo chảy máu mắt làm tinh thần bị cáo hoảng loạn nên việc bị cáo đâm bị hại là việc ngoài ý muốn.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin lỗi gia đình bị hại và xin Hộiđồng xét xử sơ thẩm xét xử bị cáo đúng theo quy định pháp luật và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Mai Cao Sthừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám nghiệm tử thi, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ được, phù hợp với lời khai của người làm chứng và những tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 08/02/2019 L, T và H ngồi uống rượu, bia thì có nói chuyện về việc S móc ranh đất làm sạt lở lối đi. Lúc này, S đang ở gần đó nghe được nên lời qua tiếng lại với T. T đi qua nhà S thì xô xát đánh nhau. T đánh trúng vào mi trên mắt trái của S làmbị thương chảy máu thì H và L đi đến can ngăn T thì T bỏ đi. Sau đó, T quay lại trên tay cầm 01 con dao, và nói với S“Bây giờ mày muốn gì, tao chém chết mày” rồi xông lại phía S. S chạy vào nhà lấy 01 con dao cạo mủ cao su. T và S cùng xông vào đánh nhau, thì T bị S cầm con dao cạo mủ cao su đâm trúng 01 nhát vào vùng cổ rồi S bỏ chạy. T cầm dao đuổi theo S được khoảng 110,2m thì té ngã gục xuống đất rồi tử vong. Sau đó S quay lại cách chỗ T nằm gục khoảng 05m thì S nhặt lấy 01 con dao rựa. Do đang tức giận về việc bị T đánh và sợ ông C đánh trả thù nên S đã trở sống dao đánh một cái vào cẳng chân phải của T rồi đi vào nhà. Sau đó S điều khiển xe mô tô đến Công an xã P trình báo. Khi S chạy xe mô tô đến gần chỗ T nằm cách 9,45m thì bị H chặn lại và ôm vật S. S bỏ chạy đến nhà ông Thông thì bị H và L đuổi kịp rồi ôm vật giữ lại. L kẹp cổ S để H đánh nhiều cái vào vùng mặt S. H chạy quay lại chỗ T lấy con dao chạy đến chém nhiều nhát vào đầu và người của S. L nhặt 01 cục gạch đánh khoảng 06 cái vào vùng đầu, mặt và người của S. H trở sống dao đánh tiếp khoảng 5 cái trúng vào cánh tay, vùng sườn và lưng của S thì dừng lại không đánh nữa.

[3] Xét thấy: Nguyên nhân xuất phát dẫn đến việc bị cáo S và bị hại T đánh nhau là từ việc mâu thuẫn khi S móc đất làm sạt lở lối đi chung. Đáng lẽ, khi hai bên có mâu thuẫn như vậy thì cần ngồi lại với nhau, nói chuyện để tìm hướng giải quyết hoặc có thể báo với chính quyền địa phương để được giúp đỡ. Tuy nhiên, bị hại T lại có hành vi sang nhà S chửi bới, thách thức và đánh bị cáo S gây thương tích ở mặt. Tiếp đó còn về nhà lấy dao sang nhà S đe dọa và xông vào chém Sdẫn đến bị cáo S dùng dao cạo mủ cao su đâm chết anh T. Như vậy, hành vi của bị cáo S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” được quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên quan điểm Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng hành vi của bị cáo phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 125 Bộ luật hình sự là không có căn cứ chấp nhận.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi sử dụng dao cạo mủ cao su đâm vào vùng cổ bị hại là hành vi đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Hậu quả xảy ra là tước đi mạng sống của anh Nguyễn Văn T, gây tổn thất to lớn đối với gia đình người bị hại và làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải có mức án tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt cho xã hội và cũng để phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Tuy nhiên, xét nguyên nhân dẫn đến sự việc có một phần lỗi của bị hại T do vậy cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Mai Cao S trong quá trình điều tra, xét xử đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo tác động gia đình khắc phục một phần hậu quả cho gia đình bị hại. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình có công với cách mạng và có hoàn cảnh khó khăn. Đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin bãi nại và tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 cần xem xét áp dụng cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

- Tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Văn T yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ bồi thường tổng số tiền là 139.000.000 đồng Bị cáo đã bồi thường được số tiền 55.000.000 đồng nên yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền 84.000.000 đồng.

Bị cáo Mai Cao S đồng ý bồi thường các khoản theo yêu cầu của đại diện bị hại Nguyễn Văn T là ông Nguyễn Văn C.

- Xét thỏa thuận giữa các bên là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật cần công nhận.

Về số tiền 55.000.000 đồng do anh Mai Cao Tđứng ra khắc phục thay cho bị cáo Tại phiên tòa anh T không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[6] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy những vật chứng không còn giá trị sử dụng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0000135 ngày 02/3/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B.

[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B về tội danh, hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Quan điểm Luật sư bào chữa cho bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[9] Đối với hành vi củaNguyễn Văn H và Nguyễn Văn Ldùng dao tấn công chém bị cáo. Do phạm vi xét xử nênkiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ.

[10] Về án phí:

- Án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Cao S phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Mai Cao S phạm tội “Giết người”

[2]. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Mai Cao S 07 (bảy) năm06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/02/2019.

[3] Về bồi thường dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; các Điều 584; Điều 585 Điều 586 Điều 591 Bộ luật dân sự 2015;

- Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo với ông Nguyễn Văn C đại diện hợp pháp của bị hại. Bị cáo Mai Cao S phải tiếp tục bồi thường cho ông Nguyễn Văn C số tiền 84.000.000 đồng (Tám mươi tư triệu đồng) - Đối với số tiền 55.000.000 đồng do anh Mai Cao T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[4] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy những vật chứng không còn giá trị sử dụng sau (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0000135 ngày 02/3/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B):

- Lá cây khô dính vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 01 - 01 áo màu đỏ, cam dính máu.

- 01 khăn vải màu trắng dính nhiều dấu vết màu nâu đỏ.

- 01 mảnh vải màu xanh tre trên cổ nạn nhân, thu tại vị trí số 01.

- Dấu vết màu nâu đỏ trên phanh tay của xe mô tô biển số 93P2-016.29.

- 01 gương chiếu hậu xe mô tô có dấu vết gãy mới, mặt gương dạng tròn đường kính 09cm.

- Nhiều sợi tóc màu đen, không có chân tóc nằm rải rác tập hợp trên đám, kích thước 18x10cm, thu tịa vị trí số 4.

- 01 viên gạch 02 lỗ, loại gạch đinh, có dấu vết mới, kích thước lớn nhất còn lại đo được 3,5x15,5x7,5cm, trên gạch dính nhiều vết màu nâu đỏ và nhiều sợi lông, tóc màu đen .

- 01 mảnh gạch có dấu vết vỡ mới, kích thước lớn nhất 8x7,5x3,5cm, dính nhiều vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 7.

- Lá cây dính vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 7.

- Dấu vết màu nâu đỏ và nhiều sợi lông, tóc màu đen bám dính trên gốc cây và cành cây, thu tại vị trí số 10.

- Lá cây chuối khô bám dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 11.

- Dấu vết màu nâu đỏ thu tại vị trí số 15.

- 01 ổ khóa bằng kim loại, màu vàng, hiệu “VIETTIEP” trên khóa dính màu nâu đỏ, trên khoe cửa thông phòng bến và kho.

- 01 dây xạc điện thoại di động màu trắng, trên dây dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 19.

- 01 con dao, loại dao bấm, dài 26,7cm, một lưỡi sắc, mũi nhọn, lưỡi dao có chữ “HK ump40”, lưỡi dao dài 11,9cm, rộng nhất 2,2cm, cán dao dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 3.

- Lá cây dính dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 14.

- 01 cục đá có hình không rõ dạng, kích thước lớn nhất 21x14,5x8cm, thu tại vị trí số 20.

- 01 cục đá có hình không rõ dạng, kích thước lớn nhất 11,5x8,5x4,5cm, thu tại vị trí số 21.

- 01 tuýp nhựa đựng dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 18.

- 01 con dao, loại dao rựa dài 57cm, một lưỡi sắc, lưỡi bằng kim loại dài 29,9cm, rộng nhất 6,7cm, trên lưỡi dao có dấu vết màu nâu đỏ, thu tại vị trí số 16.

- 01 một con dao, loại dao cạo mủ cao su, dài 32,2cm, lưỡi bằng kim loại dài 16cm, có đặc điểm đầu lưỡi sắc, dạng chữ “V’, bản rộng nhất 1,5cm một cạnh chữ “V” dài 1,8cm và cạnh còn lại là 2,5cm, cán dao bằng gỗ, trên dao dính nhiều vết màu đỏ, thu tại vị trí số 16.

- Mẫu máu thấm gạc, tóc, chất bẩn trên 10 10 kẽ ngón tay.

- 01 quần vải màu đen, thu của tử thi Nguyễn Văn T.

- 01 áo thun ngắn tay màu vàng, trước ngực có chữ “HALLA”.

- 01 quần đùi màu xanh, ốn quần bên trái phía trước có chữ “Adidas”, hai bên hông quần có sọc dọc trắng.

- 01 đôi dép nhựa màu đen, thu giữ của Nguyễn Văn L.

- 01 quần đùi vải màu đen, trên quần có dính chất màu nên đỏ, thu của Nguyễn Văn H.

- 01 đôi dép kẹp, màu đen, thu tịa vị trí số 5 và 6.

- 01 đôi dép màu đỏ, hiệu “RAW”, có size 7, thu tại vị trí số 13.

- 01 đôi dép kẹp, màu xanh [5] Về án phí:

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Cao S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Mai Cao S phải chịu 4.200.000 đồng (Bốn triệu hai trăm nghìn đồng).

[6] Kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền tiếp tục làm rõ hành vi dùng dao tấn công chém bị cáo của Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn L.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

411
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 24/06/2020 về tội giết người

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về