Bản án 15/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 15/01/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2020/TLST-HS ngày 27/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2020/QĐXXST-HS ngày 03/01/2020 đối với bị cáo:

Dương Văn L, sinh năm 1993,HKTT: Thôn T, xã M, huyện B, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố: Dương Văn H, sinh năm 1964, Mẹ: Lý Thị Th, sinh năm 1975; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Chưa có Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/11/2019 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh.- Có mặt Người bị hại: Anh Chu Văn T, sinh năm 1999; Trú quán: Thôn B, xã V, huyện N, tỉnh N. ( vắng mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Mai Văn T, sinh năm 1987; Trú quán: Thôn Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh B( vắng mặt).

2. Anh Hoàng Quốc Đ, sinh năm 1997; Trú quán: Thôn N, xã M, huyện B, tỉnh B. ( vắng mặt);

3. Chị Hoàng Thị Th, sinh năm 1992; Trú quán: Thôn C, xã Đ, huyện Tr, tỉnh C ( vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Văn L là đối tượng không có việc làm ổn định. L thuê trọ tại thôn Đông, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh cùng bạn gái là chị Hoàng Thị Th. Khoảng hơn 8 giờ ngày 16/11/2019, do thiếu tiền chi tiêu cá nhân nên L nảy sinh ý định sẽ đi lòng vòng đến các khu trọ trên địa bàn xã Tri Phương, huyện Tiên Du xem có ai để tài sản sơ hở sẽ trộm cắp. Sau đó, L đi xe ôm từ phòng trọ đến công ty chị Th đang làm việc ở khu công nghiệp Đại Đồng, L hỏi mượn chị Th chiếc xe mô tô nhãn hiệu Gxsan-Par màu đỏ BKS 22F1-0237 và nói là đi có việc, chị Th đồng ý. L điều khiển xe mô tô của chị Th đến khu nhà trọ của gia đình ông Nguyễn Tiến H, sinh năm 1950 ở thôn Lương, xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Lúc này khoảng 9 giờ, quan sát thấy cửa cổng khu trọ mở, L đỗ xe mô tô ở ngoài đường và đi bộ vào trong sân khu trọ. Khi đi đến phòng trọ số 104 tại tầng 1 của anh Chu Văn T, sinh năm 1999 ở thôn Bến, xã Văn Phương, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, L thấy cửa phòng trọ khóa bằng chiếc khóa nhỏ, L dùng tay giật mạnh khóa cửa thì ổ khóa bị bung ra. Đi vào bên trong phòng trọ, L thấy 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Sony XA, màu vàng để ở trên giường ngủ và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro, màu đen để trên mặt bàn. L lấy 02 chiếc điện thoại này cất giấu vào trong túi quần rồi đi ra ngoài và bấm ổ khóa cửa lại như cũ. Sau đó, L điều khiển xe mô tô đến cửa hàng mua bán, sửa chữa điện thoại “Bảo Linh Mobile” ở thôn Đại Thượng, xã Đại Đồng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh do anh Mai Văn T, sinh năm 1987 làm chủ. L đặt vấn đề bán chiếc điệu thoại nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro cho anh T, thấy chiếc điện thoại này đang bị hỏng, lỗi phần mềm nên anh T đồng ý mua với giá 700.000 đồng. L cầm tiền và đi đến phòng trọ của anh Hoàng Quốc Đ, sinh năm 1997 ở thôn Nà Lầu, xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, hiện đang thuê trọ tại thôn Đông, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh chơi. L nhờ anh Đ đi bán hộ chiếc điện thoại nhãn hiệu Sony XA màu đen. L nói “mày mang điện thoại này đi bán cho anh”, Đ cầm điện thoại lên xem và nói “cái này bán được bao nhiêu đâu anh” thì L nói “mày bán được bao nhiêu cũng được”. Do bản thân hiện tại không có điện thoại sử dụng nên anh Đ đi ra ngoài một lúc rồi quay về phòng đưa cho L 100.000 đồng và nói là tiền bán điện thoại mà có nhưng thực tế là anh Đ giữ chiếc điện thoại Sony lại để sử dụng. Sau đó L quay về phòng trọ của mình, số tiền có được từ việc bán 02 chiếc điện thoại trộm cắp được L đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Đến chiều ngày 16/11/2019, sau khi anh T phát hiện bị mất 02 chiếc điện thoại đã làm đơn trình báo Cơ quan điều tra về nội dung sự việc. Cơ quan điều tra đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, triệu tập L đến trụ sở làm việc đồng thời tiến hành dẫn giải L chỉ vị trí trộm cắp tài sản và địa điểm bán chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro.

Cùng ngày 16/11/2019, anh Đ tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony XA, màu vàng. Đến ngày 17/11/2019, anh T tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro, màu đen. Hai chiếc điện thoại này do anh Đ và anh T đã mua lại của L ngày 16/11/2019.

Tại Kết luận định giá tài sản số 70 ngày 29/11/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận:

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro, máy màu đen, bản 64GB. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là: 6.800.000 đồng.

- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony XA, máy màu vàng, bản 16GB. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là: 1.000.000 đồng.

Ngày 06/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du đã Quyết định xử lý vật chứng trả lại 02 chiếc điện thoại trên cho bị hại là anh Chu Văn T. Anh T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường gì khác về mặt dân sự.

Đối với số tiền 700.000 đồng anh T mua điện thoại, ngày 29/11/2019, chị Th đã tự nguyện thay L trả cho anh T, anh T không có yêu cầu, đề nghị gì về mặt dân sự. Đối với số tiền 100.000 đồng, anh Đ không yêu cầu L phải trả lại.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 03/CT - VKS ngày 27/12/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo Dương Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận: Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên vào khoảng 9 giờ ngày 16/11/2019, tại phòng trọ số 104 tầng 1 của gia đình ông Nguyễn Tiến H ở thôn Lương, xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo đã có hành vi trộm cắp tài sản là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro, màu đen, bản 64GB và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony XA, màu vàng, bản 16GB của anh Chu Văn T. Bị cáo nhận thức hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát huyện Tiên Du truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng không oan sai gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 03/CT- VKS ngày 27/12/2019. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

1/Tuyên bố bị cáo Dương Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2/ Hình phạt và điều luật áp dụng: Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo từ 07 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 17/11/2019.

3/ Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người liên quan không yêu cầu L phải bồi thường nên không đật ra xem xét giải quyết.

Bị cáo sau khi nghe luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, không tranh luận gì về tội danh và khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với bị cáo Khi được nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận: Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên vào khoảng 9 giờ ngày 16/11/2019, tại phòng trọ số 104 tầng 1 của gia đình ông Nguyễn Tiến H ở thôn Lương, xã Tri Phương, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Dương Văn L đã có hành vi trộm cắp tài sản là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi K20 Pro, màu đen có giá trị 6.800.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sony XA, màu vàng có giá trị 1.000.000 đồng của anh Chu Văn T.

Hành vi của bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Trị giá 02 chiếc điện thoại mà bị cáo L trộm cắp là 7.800.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân huyện tiên Du truy tố bị cáo L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân nơi xảy ra tội phạm. Do vậy cần áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã phạm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người chưa có tiền án tiền sự nhưng là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định và có sử dụng ma túy . Bị cáo phạm tội lần này là lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo đã tác động chị Th thay L hoàn trả cho anh T số tiền 700.000 đồng. Nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy: Đối với lần phạm tội này của bị cáo cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều điều kiện cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung..

Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: Người bị hại, người liên quan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường, hoàn trả tiền nên không đặt ra xem xét.

Với số tiền 100.000 đồng anh Đ không yêu cầu Liêm phải trả lại nên không đật ra xem xét.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Gxsan-Par màu đỏ BKS 22F1-0237 là phương tiện L sử dụng đi trộm cắp tài sản, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Hoàng Thị Th. Chị Th không biết L sử dụng xe làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với chị Th và không thu giữ xe là phù hợp.

Đối với anh Mai Văn T và anh Hoàng Quốc Đ là người mua lại 02 chiếc điện thoại do L trộm cắp được. Tuy nhiên khi giao dịch, anh T và anh Đ không biết tài sản do L phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

Ngoài hành vi trên, Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra sức khỏe của L phát hiện cơ thể dương tính với chất ma túy, tuy nhiên bị can không nhớ rõ thời gian, địa điểm nơi sử dụng trái phép chất ma túy nên không xác định được thẩm quyền xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Dương Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 135, Điều 136, Điều 329, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Xử phạt bị cáo Dương Văn L 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 17/11/2019.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để bảo đảm thi hành án.

3.Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu L phải bồi thường nên không đật ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về