Bản án 15/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 729/2019/HSST ngày 13 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6077/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Huỳnh Trọng Đ, tên gọi khác: Shop; giới tính: Nam; sinh ngày 08 tháng 3 năm 1990, tại Q; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn 6, xã Đức C, huyện M, tỉnh Q; nơi cư trú: 296/62 Nguyễn Văn L, Phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; con ông: Huỳnh Thanh T và bà: Bùi Thị S; có vợ: Dương Thị Diệu Th và 01 người con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/7/2018 - có mặt.

2. Trần Văn Ch; giới tính: Nam; sinh ngày 01 tháng 02 năm 1998, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: 242/4E Lê Hoàng P, Phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: thợ sửa xe; trình độ văn hóa: 9/12; con ông: Trần Văn Q và bà: Hoàng Thị Minh Th; có vợ: Phạm Thị Mỹ L; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 09/5/2014 bị xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (đã xóa án tích); bị bắt, tạm giam từ ngày 10/7/2018 - có mặt.

3. Nguyễn Phước Đ; giới tính: Nam; sinh ngày 10 tháng 11 năm 1997, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: 125/12/3 Lê Hoàng P, phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; nghề nghiệp: thợ xăm hình; trình độ văn hóa: 11/12; con ông: Nguyễn Văn D và bà: Bùi Thị N; có vợ: Nguyễn Ngọc Bội Tu và 01 người con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/7/2018 - có mặt.

4. Hoàng Cẩm T; giới tính:Nữ; sinh ngày 31 tháng 8 năm 1976, tại Thành phố Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 3/33 ngõ 41, phố T, phường TL, quận Đ, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: phòng 10.02 chung cư Carillon 3, số 189 Hoàng Hoa, Phường 13, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: kinh doanh tự do (là Đảng viên hiện đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng); trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Hoàng M và bà: Tạ Thị T; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giam từ ngày 10/7/2018 - có mặt.

Người bào chữa cho các bị cáo :

- Ông Trần Văn Linh - Luật sư, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Huỳnh Trọng Đ – có mặt.

- Ông Vũ Kim Đồng - Luật sư, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Hoàng Cẩm T – có mặt.

- Bà Lê Nguyễn Quỳnh Thi - Luật sư, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phước Đ – có mặt.

Bị hại:

- Ông Vũ Hưng B, sinh năm 1964; nơi cư trú: 118 Bành Văn Trân, Phường 7, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh có đại diện theo ủy quyền là ông Trần Đức Thuận, sinh năm 1986, căn cước công dân: 079086007355 (giấy ủy quyền ngày 08 tháng 11 năm 2019) – có mặt.

- Bà Vũ Thị Hồng H, sinh năm 1968; nơi cư trú: 25/2 Bành Văn Trân, Phường 7, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh – có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Dương Thị Diệu Th, sinh năm 1990; HKTT và chỗ ở: 296/62 Nguyễn Văn L, Phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (số cũ: 280/8E Nguyễn Văn L, Phường 17, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/3/2011, ông Vũ Hưng B có ký Hợp đồng tư vấn dịch vụ với ông Trần Văn To với nội dung là ông B lập hồ sơ tư vấn trình Ủy ban nhân dân Thành phố phố Hồ Chí Minh để phê duyệt chỉ tiêu quy hoạch xây dựng Dự án Trung tâm thương mại dịch vụ, khách sạn và căn hộ 29 tầng cho thuê, tại địa chỉ 161 Pasteur, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, giá trị của Hợp đồng khoán gọn là 800.000 USD tương đương hơn 16.000.000.000 đồng. Sau khi ký hợp đồng, ông To giao tiền cho ông B nhiều lần tổng cộng là 7.000.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng đến tháng 01/2018 thì ông To bị bệnh chết. Sau khi ông To chết, ông Trần Duy D (em ruột ông To) đã gặp và yêu cầu ông B phải hoàn trả lại số tiền 7.000.000.000 đồng đã nhận cho gia đình nhưng ông B không đồng ý, vì cho rằng ông To đã vi phạm hợp đồng và ông B cho biết số tiền trên đã chi hết vào việc thực hiện hợp đồng.

Khoảng đầu tháng 3/2018, Huỳnh Trọng Đ biết được việc ông Vũ Hưng B đã nhận số tiền của ông To nhưng không làm được việc và không chịu trả lại tiền cho gia đình ông To. Thông qua Phạm Việt Anh (là bạn của Đ) giới thiệu Đ cho ông D và Hoàng Cẩm T (là bà con xa của ông D) để đòi nợ ông B. T nhờ Đ giúp ông D đòi ông B số tiền là 8.900.000.000 đồng và 20.000 USD (tính cả vốn và lãi mà ông B đã nhận của ông To trong việc lo giấy phép xây dựng và thỏa thuận với Đ nếu đòi được tiền thì cho Đ 20% trên tổng số tiền đòi được. Sau đó, Đ và 01 số người (không rõ lai lịch) đi đến Bệnh viện Thánh Mẫu gặp ông B đòi tiền nhưng ông B không đồng ý trả. Đ và 01 số người đã la hét gây mất trật tự, ngăn cản bệnh nhân vào khám bệnh, phát tơ rơi có nội dung “ông B làm Giám đốc Bệnh viện đi lừa đảo”. Sợ ảnh hưởng đến uy tín của bản thân và hoạt động kinh doanh của Bệnh viện Thánh Mẫu và sợ tình hình có thể xảy ra ngày càng nghiêm trọng nên ông B đã hẹn gặp Đ và ông D tại quán cà phê ở khách sạn Đệ Nhất, quận T. Tại đây, ông D yêu cầu ông B trả số tiền 7.000.000.000 đồng cho Đ (vì đã làm giấy ủy quyền cho Đ đòi tiền ông B). Đ nói với ông B là gia đình ông To thiếu nợ Đ số tiền 20.000.000.000 đồng nên ai thiếu nợ ông To thì phải trả cho Đ và yêu cầu ông B phải trả số tiền 7.000.000.000 đồng của ông To cho Đ. Trước sức ép của Đ, để sự việc êm xuôi nên ông B đồng ý hỗ trợ cho gia đình ông To số tiền 1.000.000.000 đồng. Từ đầu tháng 3/2018 đến cuối tháng 5/2018, ông B đã nhiều lần chuyển tiền vào tài khoản và trực tiếp gặp Đ trả tiền mặt nhiều lần, tổng cộng là 1.000.000.000 đồng theo thỏa thuận.

Đến đầu tháng 6/2018, Đ điện thoại nói với T là sẽ thuê người đến nhà của ông B và đến Bệnh viện Thánh Mẫu dùng đá, gạch, vỏ chai bia chứa nước bẩn, nước sơn, mắm thối ném vào nhà của ông B và Bệnh viện Thánh Mẫu, đồng thời gọi điện thoại, nhắn tin đe dọa ông B, nhằm buộc ông B phải tiếp tục trả tiền. T đồng ý và đưa cho Đ số tiền 40.000.000 đồng để Đ làm chi phí. Đ có thuê người tên Khoa (không rõ lai lịch) 02 lần đến Bệnh viện Thánh Mẫu tạt sơn, ném chất bẩn, mỗi lần Đ trả công cho Khoa là 2.000.000 đồng. Sau đó, Đ thuê Trần Văn Ch giúp Đ đi đòi nợ ông B, Ch đồng ý và rủ Nguyễn Phước Đ cùng một số người (không rõ lai lịch) đi đến nhà ông B và đến Bệnh viện Thánh Mẫu tạt nước sơn, mắm thối, dùng đá ném vào nhà và Bệnh viện, đồng thời Đ đã liên tục nhắn tin đe dọa tính mạng của ông B và gia đình nhưng ông B vẫn không đồng ý trả tiền. Đ đi mua cây búa đưa cho Ch để đập bể cửa kính tại Bệnh viện Thánh Mẫu. Tất cả các lần Ch, Đ và các đối tượng (không rõ lai lịch) đi đập cửa kính, tạt sơn, mắm thối vào nhà của ông B và Bệnh viện Thánh Mẫu xong thì Ch và Đ đều có chụp lại hình (bằng điện thoại di động) gửi cho Đ biết kết quả. Sau khi nhận được hình ảnh do Ch và Đ gửi thì Đ gửi các hình ảnh qua Zalo và nhắn tin báo kết quả cho T biết. Đ trả tiền công cho Ch là 6.000.000 đồng, Ch không chia cho Đ mà dùng số tiền này dẫn Đ đi uống cà phê, ăn uống và tiêu xài hết.

Tất cả các lần đập phá tài sản tại nhà ông B và tại Bệnh viện Thánh Mẫu từ khoảng giữa tháng 6/2018 đến đầu tháng 7/2018, đều được camera an ninh tại nhà của ông B và tại Bệnh viện Thánh Mẫu ghi lại hình ảnh. Ông B đã đến Công an Phường 4 và phường 7, quận Tân Bình trình báo vụ việc bị hủy hoại tài sản. Kết quả điều tra xác định:

1. Tại nhà địa chỉ số 8/15/34 Nguyễn Đình Khơi, phường 4, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Vũ Hưng B làm chủ sở hữu: Ngày 17/6/2018, bị tạt nước sơn, mắm thối vào của nhà; ngày 18/6/ 2018, bị chọi đá làm bể 01 tấm cửa kính ở cửa chính trên lầu 1; ngày 24/6/2018, bị chọi đá làm bể 01 tấm kinh cửa sổ trên lầu 1 và bị tạt nước sơn màu đỏ; ngày 01/7/2018, bị đập bể 02 chậu bông ngoài cổng.

2. Tại Bệnh viện Thánh Mẫu địa chỉ số 118 Bành Văn Trân, Phường 7, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh do bà Vũ Thị Hồng Hạnh (em ông B làm giám đốc ): Ngày 01/6/2018, ngày 03/6/2018, ngày 09/6/2018, ngày 14/6/2018, ngày 16/6/2018, ngày 23/6/2018 và ngày 28/6/2018 bị tạt sơn đỏ, mắm thối vào hành lang phòng khám; ngày 02/7/2018, bị đập bể 02 cửa kính cường lực ở mặt tiền trước phòng khám da liễu.

Ngày 09/7/2018, Đ được ông B hẹn đến quán cà phê Thủy Nguyên số A1 đường Trường Sơn, Phường 2, quận Tân Bình để nhận 300.000.000 đồng. Đ kêu Ch và Đ đi cùng. Khi đến nơi Ch và Đ ngồi riêng 01 bàn còn Đ vào ngồi cùng bàn với ông B. Tại đây, ông B đưa cho Đ số tiền 300.000.000 đồng. Đ nhận tiền xong, viết giấy biên nhận thì Đ, Ch và Đ bị Phòng Cảnh sát hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 187/HĐĐGTS-TTHS và số 188/HĐĐGTS-TTHS của Ủy ban nhân dân quận Tân Bình, kết luận:

- Tấm kính cường lực kích thước 136 cm x 278,5 cm dày 01cm bị đập bể tại Bệnh viện Thánh Mẫu ngày 02/7/2018, trị giá là 3.411.000 đồng. Tấm kính cường lực kích thước 114 cm x 278,5 cm dày 01cm bị đập bể tại Bệnh viện Thánh Mẫu ngày 02/7/2018, giá trị là 2.853.000 đồng, tổng cộng là 6.264.000 đồng - Tấm kính cường lực kích thước 200 cm x 80 cm dày 0,5 cm bị chọi bể tại cửa nhà ông B giá trị là 400.000 đồng”.

Về phần dân sự:

- Ngày 12/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an TP. Hồ Chí Minh đã trả cho ông Vũ Hưng B số tiền 300.000.000 đồng. Ông B không yêu cầu bồi thường thiệt hại về hành vi tạt sơn, chất bẩn, cửa sổ kính và 02 chậu bông bị hư hỏng.

- Bà Vũ Thị Hồng Hạnh - Giám đốc Bệnh viện Thánh Mẫu yêu cầu bồi thường 02 tấm kính cường lực cửa ra vào của Bệnh viện Thánh Mẫu theo kết quả định giá, không yêu cầu bồi thường thiệt hại về việc tạt sơn và chất bẩn.

Tại bản cáo trạng số 376/CT-VKS-P2 ngày 12/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

- Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch và Nguyễn Phước Đ về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và tội “Hủy hoại tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 170 và khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

- Hoàng Cẩm T về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 170 Bộ luật Hình sự.

+ Đối với hành vi đập bể 02 tấm cửa kính vào ngày 02/7/2018, do Đ đã thuê Ch, Đ thực hiện. kết quả điều tra xác định Hoàng Cẩm T không bàn bạc trước và không yêu cầu Đ đến bệnh viện Thánh Mẫu để đập 02 tấm cửa kính nêu trên. Do đó, Viện kiểm sát xác định không có căn cứ để xử lý Hoàng Cẩm T, về tội “Hủy hoại tài sản” với vai trò đồng phạm.

+ Đối với ông Trần Duy D kết quả điều tra xác định ông D không biết và không tham gia cùng các bị cáo. Do đó, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không xử lý.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch, Nguyễn Phước Đ, Hoàng Cẩm T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Trong phần tranh luận các bị cáo đồng ý với bào chữa của các Luật sư, không tranh luận gì thêm và nói lời sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phân tích tích chất, mức độ, vai trò phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, tình tiết giảm nhẹ và giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo, đồng thời đề nghị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 170 và khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Huỳnh Trọng Đ từ 08 năm đến 09 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và từ 01 năm đến 02 năm tù tội “Hủy hoại tài sản” ; Trần Văn Ch từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và từ 01 năm đến 02 năm tù tội “Hủy hoại tài sản”, Nguyễn Phước Đ từ 05 năm đến 06 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và từ 01 năm đến 02 năm tù tội “Hủy hoại tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Cẩm T từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Đề nghị buộc các bị bồi thường cho bị hại Vũ Thị Hồng Hạnh theo yêu cầu và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Trọng Đ : Đồng ý với tội danh Viện kiểm sát truy tố, chỉ đề nghị xem xét cho bị cáo về động cơ, mục đích của bị cáo lúc đầu chỉ là đòi nợ ông B theo ủy quyền hợp pháp, tuy nhiên do ông B không đồng ý trả nợ theo thỏa thuận làm cho bị cáo bức xúc và có hành vi gây áp lực buộc ông B trả nợ, vai trò của bị cáo có sự tác động từ bị cáo T. 02 tội do bị cáo phạm phải là gắn liền nhau về mục đích nhằm hưởng tiền công. Bị cáo có nhân thân tốt, nhận thức pháp luật hạn chế, có hoàn cảnh khó khăn có con nhỏ ; đã nộp tiền khắc phục hậu quả cho bị hại ; khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức án Viện kiểm sát đề nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Cẩm T: Đồng ý với tội danh Viện kiểm sát truy tố, đề nghị xem xét cho bị cáo các tình tiết về nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội là do bức xúc việc ông B không trả lại tiền cho người thân của bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt bản thân từng là Đảng viên, có cha và anh trai công tác trong ngành Công an; khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức án Viện kiểm sát đề nghị.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phước Đ: Đồng ý với tội danh Viện kiểm sát truy tố, tuy nhiên mức án Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo là quá nghiêm khắc chưa tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo, chưa phân hóa mức độ phạm tội của bị cáo. Về ý thức phạm tội của bị cáo là hạn chế, lúc đầu bị cáo không biết việc phạm tội do Ch không nói, sau khi cùng thực hiện với Ch bị cáo mới biết, các lần tiếp theo bị cáo chỉ thực hiện theo yêu cầu của Ch chỉ nhằm giúp đỡ bạn bè, bị cáo không biết việc cùng Ch đến quán cà phê là nhằm mực đích bảo vệ cho Đ nhận tiền của ông B; bị cáo có nhân thân tốt, có bà nội là bà mẹ Việt Nam anh hùng và có chú ruột có công cách mạng ; có hoàn cảnh khó khăn con còn nhỏ; khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải ; các bị cáo chưa gây hậu quả về tội cưỡng đoạt tài sản, hành vi hủy hoại tài sản là gắn liền với tội cưỡng đoạt nên đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thấp hơn mức án Viện kiểm sát đề nghị đối với tội cưỡng đoạt tài sản và miễn trách nhiệm hình sự đối với tội hủy hoại tài sản.

Đối đáp quan điểm bào chữa của các Luật sư, đại diện Viện kiểm sát xác định các Luật sư thống nhất tội danh nên không tranh luận, về các tình tiết giảm nhẹ Viện kiểm sát chưa nhận được các tài liệu do Luật sư nêu nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng nếu có.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Qua xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch, Nguyễn Phước Đ, Hoàng Cẩm T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định :

Ngày 17/3/2011, ông Vũ Hưng B có ký Hợp đồng với ông Trần Văn To, lập hồ sơ trình Ủy ban nhân dân TP. phố Hồ Chí Minh để phê duyệt quy hoạch xây dựng Trung tâm thương mại dịch vụ, khách sạn và căn hộ 29 tầng tại địa chỉ 161 Pasteur, phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Ông To đã giao cho ông B, số tiền 7.000.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng kéo dài đến tháng 01/2018 thì ông To bị bệnh chết. Ông Trần Duy D (em ruột ông To) và Hoàng Cẩm T (bà con với ông D) đã gặp ông B và yêu cầu phải hoàn trả lại số tiền 7.000.000.000 đồng cho gia đình ông To nhưng ông B không đồng ý.

Khoảng tháng 3/2018, Huỳnh Trọng Đ biết được sự việc nên gặp ông D và T nói sẽ giúp đòi lại tiền từ ông B. T thỏa thuận với Đ nếu đòi được tiền từ ông B thì cho Đ 20% trên tổng số tiền đòi được. Đ gọi 01 số người (không rõ lai lịch) cùng đến Bệnh viện Thánh Mẫu (nơi ông B làm Giám đốc) gặp ông B đòi tiền nhưng ông B không đồng ý trả. Đ và 01 số người đã la hét gây mất trật tự, ngăn cản bệnh nhân vào khám bệnh, phát tơ rơi có nội dung “ông B làm Giám đốc Bệnh viện đi lừa đảo”. Trước sức ép của Đ, để sự việc êm xuôi nên ông B đồng ý và trả cho gia đình ông To số tiền 1.000.000.000 đồng.

Đến đầu tháng 6/2018, Đ nói với T sẽ thuê người đi đến nhà của ông B và đến Bệnh viện Thánh Mẫu dùng đá, gạch ném, tạt nước bẩn, nước sơn, mắm thối nhằm buộc ông B phải tiếp tục trả tiền. T đồng ý và đưa cho Đ số tiền 20.000.000 đồng để Đ làm chi phí. Đ thuê Trần Văn Ch, Ch rủ Nguyễn Phước Đ và một số người khác (không rõ lai lịch) đến nhà ông B và đến Bệnh viện Thánh Mẫu tạt nước sơn, mắm thối, dùng đá ném vào nhà và Bệnh viện nhưng ông B vẫn không đồng ý trả tiền. Đ đưa búa cho Ch đi đập bể đập bể 02 tấm cửa kính có trị giá là 6.264.000 đồng của Bệnh viện Thánh Mẫu. Đ đã liên tục nhắn tin đe dọa tính mạng của ông B và gia đình buộc ông B phải đưa số tiền 300.000.000 đồng. Ngày 09/7/2018, ông B hẹn Đ đến quán cà phê Thủy Nguyên số A1 đường Trường Sơn, phường 2, quận Tân Bình để nhận tiền. Khi ông B đưa cho Đ số tiền 300.000.000 đồng, thì Đ, Ch và Đ bị bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy, có đủ căn cứ pháp lý kết luận các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch, Nguyễn Phước Đ, Hoàng Cẩm T đã phạm vào tội “ Cưỡng đoạt tài sản ” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch, Nguyễn Phước Đ còn phạm thêm tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo với tội danh khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì vụ lợi cho cá nhân các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tác hại xấu đến trật tự an toàn của xã hội, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân tại địa phương. Việc đòi nợ thuê dẫn đến hành vi phạm tội hiện gây nhiều bức xúc trong xã hội và bị lên án. Các bị cáo biết rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt nhưng đã xem thường, cố ý phạm tội đến cùng, bất chấp hậu quả. Trong vụ án này các bị cáo đã thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản có trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, đây là tình tiết tặng nặng định khung hình phạt theo quy định tại điểm a khoản 3 của Điều 170 đã viện dẫn.

Về tình tiết tăng nặng: các bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xét thấy tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội chưa gây thiệt hại (đối với tội “ Cưỡng đoạt tài sản ”), gây thiệt hại không lớn (đối với tội “ Hủy hoại tài sản ”); có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự ; bị cáo Đ đã nộp tiền khắc phục hậu quả cho bị hại về tội “ Cưỡng đoạt tài sản ” ; các bị cáo Ch, Đ, T tham gia với vai trò giúp sức là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và áp dụng thêm Điều 55 ; Điều 58 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Từ những phân tích trên, cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, vai trò, động cơ, mức độ phạm tội và nhân thân của từng bị cáo, nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Xét yêu cầu của bà Vũ Thị Hồng Hạnh (Giám đốc Bệnh viện Thánh Mẫu) về việc bồi thường 02 tấm cửa kính có trị giá 6.264.000 đồng là có căn cứ được chấp nhận. Buộc các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch là người trực tiếp gây thiệt hại phải liên đới bồi thường cho bị hại, mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền 3.132.000 đồng. (tiếp tục tạm giữ số tiền 6.000.000 đồng do bị cáo Đ giao nộp để thi hành án) Về xử lý vật chứng:

+ Xét số tiền 40.000.000 đồng bị cáo Huỳnh Trọng Đ nhận từ Hoàng Cẩm T để thực hiện cưỡng đoạt tài sản. Trong đó Đ chiếm hưởng 34.000.000 đồng và đưa cho Trần Văn Ch 6.000.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên buộc các giao nộp để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

+ 02 (hai) điện thoại di động hiệu Iphone, 01 (một) điện thoại di động hiệu Vertu, 02 (hai) điện thoại di động hiệu Nokia là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

+ Đối với số tang vật còn lại không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

+ 01 xe 02 bánh gắn máy màu trắng, nhãn hiệu honda, loại xe : 02 bánh, số loại : SH 125, BS : 59C1-081.89, SK : RLHJF2904AY-008753, SM : JF14E- 5006483KTFE1 do bà Dương Thị Diệu Thúy đứng tên sở hữu, không biết việc Đ dùng phạm tội nên trả xe cùng giấy đăng ký xe cho bà Thúy.

+ 01 xe 02 bánh gắn máy, nhãn hiệu yamaha, loại xe : 02 bánh, số loại : Taurus, BS : 54F3-7135, SK : RLCS16S209Y 094058, SM : 16S2-094040 do bị cáo Trần Văn Ch sử dụng bị tạm giữ chưa xác định được sở hữu hợp pháp hiên nay là ai, cần tiếp tục cho đăng báo tìm chủ sở hữu nêu vẫn không xác định được thì tịch thu nộp ngân sách Nước.

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo qui định tại Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án có hiệu lực ngày 01/01/2017.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 170; khoản 1 Điều 178 ; điểm d khoản 1 Điều 52 ; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 ; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt: Huỳnh Trọng Đ 09 (chín) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, hình phạt chung cho 02 tội là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/7/2018.

2. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 170; khoản 1 Điều 178 ; điểm d khoản 1 Điều 52 ; điểm h, s khoản 1 Điều 51 ; Điều 55 ; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt: Trần Văn Ch 07 (bảy) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “ Hủy hoại tài sản ”, hình phạt chung cho 02 tội là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/7/2018.

3. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 170; khoản 1 Điều 178 ; điểm d khoản 1 Điều 52 ; điểm h, s khoản 1 Điều 51 ; Điều 55 ; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt: Nguyễn Phước Đ 06 (sáu) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và 01 (một) năm tù về tội “ Hủy hoại tài sản ”, hình phạt chung cho 02 tội là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/7/2018.

4. Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 170; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt: Hoàng Cẩm T 07 (bảy) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/7/2018.

5.Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và các Điều 357, 468, 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch mỗi bị cáo phải bồi thường cho bà Vũ Thị Hồng Hạnh số tiền 3.132.000 (ba triệu một trăm ba mươi hai ngàn) đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 6.000.000 đồng do gia đình bị cáo Huỳnh Trọng Đ đã nộp để khắc phục hậu quả theo biên lai thu số 0024827 ngày 28/10/2019 của cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo thi hành khoản tiền 3.132.000 (ba triệu một trăm ba mươi hai ngàn) đồng.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Trần Văn Ch chưa thực hiện hết khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

6. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 ; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, + Buộc bị cáo Huỳnh Trọng Đ phải giao nộp số tiền 34.000.000 (ba mươi bốn triệu) đồng và bị cáo Trần Văn Ch phải giao nộp số tiền 6.000.000 đồng là tiền do phạm tội mà có để tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Kể từ có quyết định thi hành án, nếu các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch chưa thực hiện hết khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo qui định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng (model A1453, số imei :…5563, 01 (một) điện thoại di động hiệu Vertu V50206 màu trắng đen (không kiểm tra được loại, số imei :..189548) ; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia C2 màu đen (không tem, không xác định loại, bể kính, trầy xước) ; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia C2 màu đen; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu trắng hồng (model A1687 FCCID E2944A) + Tịch thu tiêu hủy: 01 cây búa gỗ dài khoảng 30 cm, có đầu búa bằng kim loại màu đen kích thước khoảng 05 cm x 10 cm, hai đầu búa bằng (đã được niêm phong); 02 cục đá xanh kích thước khoảng 05 cm x 10 cm (đã được niêm phong).

+ Trả cho bà Dương Thị Diệu Thúy 01 xe 02 bánh gắn máy màu trắng, nhãn hiệu honda, loại xe : 02 bánh, số loại : SH 125, BS : 59C1-081.89, SK : RLHJF2904AY-008753, SM : JF14E-5006483KTFE1 cùng giấy đăng ký xe biển số 59C1-081.89 mang tên Dương Thị Diệu Thúy .

+ Cho đăng báo 03 tháng đối với 01 xe 02 bánh gắn máy, nhãn hiệu yamaha, loại xe : 02 bánh, số loại : Taurus, BS : 54F3-7135, SK : RLCS16S209Y 094058, SM : 16S2-094040 để tìm chủ sở hữu nếu vẫn không xác định được thì tịch thu nộp ngân sách Nước.

( Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 62/20 ngày 11/11/2019 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hồ Chí Minh ).

- Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 (hai trăm ngàn) đồng. Riêng các bị cáo Huỳnh Trọng Đ, Trần Văn Ch mỗi người còn phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo xin xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (đã được sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 13/01/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về