Bản án 15/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06-5-2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thế mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2020/HS-ST ngày 21 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐXXST- HS, ngày 29-4-2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh năm 1993;

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Đ, xã TT, huyện TY, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ: Không có; Bố: Nguyễn Văn T, sinh năm 1954;

Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1960;

Vợ: Đặng Thị G, sinh năm 1992(đã ly hôn);

Con: bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 04;

Tiền án: Tại bản án số 15/2018/HS-ST ngày 30/10/2018, Nguyễn Văn Đ bị Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 9 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/4/2019.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

* Bị hại: Bà Lê Thị V, sinh năm 1961 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn TC, thị trấn PX, huyện YT, tỉnh Bắc Giang.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1954 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã TT, huyện TY, tỉnh Bắc Giang.

* Người làm chứng:

1, Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1990 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã TT, huyện TY, tỉnh Bắc Giang.

2, Anh Trần Quốc T, sinh năm 1987 (vắng mặt).

3, Bà Phạm Thị L, sinh năm 1963 (vắng mặt).

4, Bà Trần Thị T, sinh năm 1969 (vắng mặt).

5, Ông Trần Văn B, sinh năm 1957 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn TC, thị trấn PX, huyện YT, tỉnh Bắc Giang.

6, Anh Dương Văn Phong, sinh năm 1987 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn TL, thị trấn Đ, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên.

7, Anh Nguyễn Như Đg, sinh năm 1973 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn CT, xã MĐ, huyện VY, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án diễn biến tại phiên tòa thì vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng gần 10 giờ ngày 20/3/2020, Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20L8-4330 đi từ nhà mục đích lên khu vực nghĩa trang xã Tân Hiệp, huyện Yên Thế đào cây hoa mẫu đơn. Khi qua khu vực nhà bà Lê Thị V thì Đ nhìn thấy 01 con gà mái đang đứng trên tường cay cao 1,56 m của gia đình bà V. Lúc này Đ nảy sinh ý định trộm cắp gà đem về bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Đ dừng xe, tiến về phía con gà, dùng tay phải túm nhưng gà nhảy vào trong vườn nhà bà V. Đ trèo tường vào bên trong rồi tiếp tục lùa gà vào gần bờ tường, dùng hai tay vồ, túm được gà. Lúc này bà Phạm Thị Lành (gần nhà bà V) nghe tiếng gà kêu nên gọi anh Trần Quốc Toản (con trai bà Lành). Sau khi bắt được gà thì Đ cầm gà, trèo tường ra ngoài cho gà vào bao tơ rứa, lên xe đang định bỏ chạy thì anh Toản chạy đến bắt quả tang. Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 20L8-4330 trên xe có 01 giá thồ hàng, trên giá có 01 con dao nhọn loại dao bầu; thu ở cạnh vị trí xe mô tô 01 bao tơ rứa miệng bao được buộc 01 dây tơ rứa, trong bao có 01 con gà mái hoa mơ. Vụ việc được trình báo Công an thị trấn Phồn Xương. Công an thị trấn Phồn Xương dùng cân đồng hồ cân xác định trọng lượng gà là 02 kg. Vụ việc ngay sau đó được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thế tiến hành khám nghiệm hiện T, thụ lý để giải quyết theo thẩm quyền và tiến hành định giá tài sản.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 24/KL-HĐĐGTS ngày 23/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Yên Thế kết luận: 01 con gà mái đẻ lông hoa mơ, loại gà ta có trọng lượng 02 kg là: 140.000 đồng (Một trăm bốn mươi nghìn đồng).

Ngày 23/3/2020 ông Nguyễn Văn T giao nộp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe số 0059650, 01 giấy bán xe đề ngày 04/9/2019.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS-YT ngày 20-4- 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế truy tố bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, sau phần xét hỏi tại phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế thực hành quyền công tố đã luận tội đối với bị cáo, phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đồng thời giữ nguyên quan điểm như quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ từ 06 đến 08 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Về hình phạt bổ sung bằng tiền: Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Tch thu tiêu hủy 01 bao tơ rứa màu trắng đã cũ, 01 sợi dây tơ rứa màu xanh đã cũ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

1. [Về Tố tụng]:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Yên Thế, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị cáo thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Yên Thế nên vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện Yên Thế theo quy định tại Điều 269 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị hại vắng mặt đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt, việc vắng mặt những người này không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người trên.

2. [Về tội danh]:

Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều thừa nhận: Khoảng gần 10 giờ ngày 20-3-2020 Nguyễn Văn Đ có hành vi trộm cắp 01 con gà mái hoa mơ của bà Lê Thị V, giá trị tài sản trộm cắp là 140.000 đồng (Một trăm bốn mươi nghìn đồng). Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo là lén lút trộm cắp tài sản của người khác mục đích bán lấy tiền chi tiêu cá nhân, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 140.000 đồng, tuy nhiên do bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại tái phạm nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 cuả Bộ luật hình sự. Như vậy, Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKS-YT ngày 20-4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Về hình phạt bổ sung bằng tiền: Bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có bất kỳ tài sản riêng nào nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi:

Hành vi của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của bị hại một cách trái pháp luật, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt không lớn nhưng bị cáo có một tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tái phạm, chứng tỏ bị cáo không ăn năn, hối lỗi về hành vi phạm tội của mình nên cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người tích cực lao động, có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Không ai có ý kiến, yêu cầu bồi thường gì nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 con gà mái là của bà Lê Thị V, 01 xe mô tô biển kiểm soát 20L8-4330, 01 giá thồ hàng, 01 con dao, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe và 01 giấy bán xe là của ông Nguyễn Văn T, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với 01 bao tơ rứa và 01 dây tơ là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Đ phải chịu 200.000 đồng tiền án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật hình sự; Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị bắt đi chấp hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bao tơ rứa màu trắng (đã cũ), 01 sợi dây tơ rứa màu xanh (đã cũ).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống Đ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 06/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về