Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 04/05/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 15/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 04 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 14/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2020 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Hải  (tên gọi khác BT), sinh năm 1982 Địa chỉ: ấp 1, thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu

-Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh Nh, sinh năm 1978 Địa chỉ: ấp 1, thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu (Chị Â và anh Nh cùng có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/12/2019, lời khai trong quá trình tố tụng, tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Bùi Thị Hải  và bị đơn anh Nguyễn Thanh Nh cùng trình bày:

Về quan hệ hôn Nh: Chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh cùng thống nhất xác định anh chị đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã NgH, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau vào ngày 24/12/2006 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị Â xác định: thời gian đầu vợ chồng chị chung sống rất hạnh phúc, tuy nhiên khoảng 03 năm nay giữa chị và anh Nh thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, mỗi lần vợ chồng cãi nhau là anh Nh có hành vi đánh chị, dùng những lời lẽ thô tục để chửi chị, xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của chị trước mặt các con, mâu thuẫn giữa chị và anh Nh cũng đã được gia đình hai bên hàn gắn, hòa giải, chị cũng đã vì quan hệ vợ chồng, vì các con nên chị cũng nhiều lần cho anh Nh cơ hội để sữa đổi nhưng anh Nh không có thiện chí khắc phục, hiện chị và anh Nh vẫn còn sống chung nhà nhưng không ai quan tâm ai, cuộc sống vợ chồng hiện rất căng thẳng, nay chị nhận thấy không còn khả năng tiếp tục chung sống với anh Nh được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Thanh Nh.

Về nguyên nhân ly hôn theo anh Nh trình bày: anh thừa nhận trong thời gian chung sống thì vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, cãi vã nhau, do tính chất công việc anh làm chịu nhiều áp lực, căng thẳng ở bên ngoài, anh ít có ở nhà, tuy nhiên mỗi lần về nhà thì chị Â hay cằn nhằn, tỏ thái độ bực bội với anh nên trong lúc vợ chồng cãi nhau anh không kiềm chế được hành vi nên có đánh chị Â, tuy nhiên sau khi đánh vợ thì anh đã nhìn nhận được cái sai của bản thân, đã nhiều lần xin lỗi vợ và gia đình vợ nhưng vợ anh vẫn cố chấp không chịu bỏ qua cho anh, nay anh còn thương vợ, thương con nên anh yêu cầu được đoàn tụ.

Về con chung: Chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh cùng thống nhất xác định trong thời gian chung sống anh chị có với nhau 02 người con chung tên Nguyễn Thanh Nh, sinh ngày 05/4/2009 và Nguyễn Thanh V, sinh ngày 08/9/2012, hiện con đang sống với chị  và anh Nh, khi ly hôn chị  yêu cầu được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Anh Nh cũng đồng ý giao các con chung cho chị  nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Bùi Thị Hải  yêu cầu anh Nguyễn Thanh Nh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi người con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi các con tròn 18 tuổi, anh Nh đồng ý cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị Â.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh cùng thống nhất xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này.

Tại phiên tòa hôm nay chị Â xác định chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đối với anh Nh, chị xác định không còn tài liệu, chứng cứ để cung cấp thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Giữa chị  và anh Nh kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, nay chị  yêu cầu ly hôn, anh Nh không đồng ý ly hôn mà yêu cầu được đoàn tụ, tuy nhiên trong thời gian vợ chồng phát sinh m thuẫn cho đến tại phiên tòa hôm nay mặc dù anh Nh đã nhiều lần tìm biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị  đối với anh Nh là có căn cứ.

Về nuôi con chung: đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của chị Â và anh Nh, giao 02 người con chung tên Nguyễn Thanh Nh, sinh ngày 05/4/2009 và Nguyễn Thanh V, sinh ngày 08/9/2012 cho chị Â nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Thanh Nh được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: ghi nhận sự thỏa thuận của chị Â và anh Nh về việc cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con, buộc anh Nh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nh và cháu V mỗi cháu mỗi tháng là 2.000.000 đồng cho đến khi 02 cháu tròn 18 tuổi và việc cấp dưỡng được thi hành ngay.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh cùng thống nhất xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này.

Về án phí thì chị Â và anh Nh phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Â có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Nh. Anh Nh có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

[2] Về nội dung vụ án: chị Â và anh Nh cưới nhau vào năm 2006, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có tổ chức đám cưới hỏi theo phong tục tại địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban Nh dân xã NgH, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau vào ngày 24/12/2006 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Â đối với anh Nh thì Hội đồng đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị Â và anh Nh lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Hiện chị Â và anh Nh vẫn còn sống chung với nhau nhưng không ai quan tâm đến ai, anh Nh có nguyện vọng được đoàn tụ, tuy nhiên từ khi chị Â nộp đơn xin ly hôn cho đến tại phiên tòa hôm nay anh Nh đã tìm nhiều biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị Â vẫn kiên quyết giữ nguyên quan điểm yêu cầu ly hôn với anh Nh và xác định nếu Tòa án giải quyết không cho chị được ly hôn với anh Nh thì chị cũng không trở về chung sống với anh Nh, anh Nh xác định nếu chị Â kiên quyết ly hôn và Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn thì anh phải chấp nhận chứ thực sự anh không muốn ly hôn , điều đó chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị Â và anh Nh đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Â đối với anh Nh để mỗi người có cuộc sống mới tốt hơn là phù hợp.

Về nuôi con chung: giao 02 người con chung tên Nguyễn Thanh Nh, sinh ngày 05/4/2009 và Nguyễn Thanh V, sinh ngày 08/9/2012 cho chị Bùi Thị Hải  nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Thanh Nh được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: ghi nhận sự thỏa thuận của chị Â và anh Nh về việc cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con, buộc anh Nh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nh và cháu V mỗi cháu mỗi tháng là 2.000.000 đồng cho đến khi 02 cháu tròn 18 tuổi và thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 5/2020.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh cùng thống nhất xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Â phải chịu theo quy định của pháp luật. Về án phí cấp dưỡng nuôi con buộc anh Nh phải chịu theo quy định pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84, 110 và 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Hải Â. Xử cho chị Bùi Thị Hải  được ly hôn với anh Nguyễn Thanh Nh.

2/. Về nuôi con chung: giao 02 người con chung tên Nguyễn Thanh Nh, sinh ngày 05/4/2009 và Nguyễn Thanh V, sinh ngày 08/9/2012 cho chị Bùi Thị Hải  nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Thanh Nh được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: ghi nhận sự thỏa thuận của chị Â và anh Nh về việc cấp dưỡng và mức cấp dưỡng nuôi con, buộc anh Nh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nh và cháu V mỗi cháu mỗi tháng là 2.000.000 đồng cho đến khi 02 cháu tròn 18 tuổi và thời gian cấp dưỡng được tính từ tháng 5/2020.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3/. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh cùng thống nhất xác định vợ chồng tự thỏa thuận nên không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này.

4/. Về án phí: Chị Bùi Thị Hải  phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004162 ngày 14 tháng 01 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Về án phí cấp dưỡng nuôi con: buộc anh Nguyễn Thanh Nh phải nộp số tiền 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Bùi Thị Hải  và anh Nguyễn Thanh Nh được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HNGĐ-ST ngày 04/05/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:15/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về