Bản án 15/2020/DS-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 15/2020/DS-ST NGÀY 29/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 4 năm 2020, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 269/2019/TLST-DS, ngày 17/12/2019, “V/v tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2020/QĐXXST-DS ngày 16/3/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 227/2020/QĐST -DS ngày 01/4/2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thị C, sinh năm 1953;

Địa chỉ: Số nhà 779, ấp AT, xã AH, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Nguyễn Văn Bé L, sinh năm 1957;

Địa chỉ: Số nhà 19A, k1, Tt LV, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. (Bà C có mặt, ông Bé L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn Nguyễn Thị C trình bày: Vào thời gian năm 2018 bà C có bán cho ông Bé L số lượng heo với giá tiền là 30.000.000đ. Sau đó ông Bé L có trả được 15.000.000đ, ông hẹn đến 11/12/2018 trả nhưng vẫn chưa thanh toán. Sau đó bà C nhiều lần yêu cầu nhưng ông Bé L vẫn không thực hiện, sự việc có lập biên bản ông Bé L thừa nhận tại BND khóm 1, TT.Lai Vung, huyện Lai Vung.

Nay Bà C yêu cầu giải quyết buộc ông Bé L phải hoàn trả số tiền vốn mua heo còn lại là 15.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

- Bị đơn Nguyễn Văn Bé L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như để tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, không có lý do chính đáng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, xét thấy: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ trả tiền mua bán heo còn nợ nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản” theo quy định tại Điều 430 của Bộ luật dân sự.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn Nguyễn Văn Bé L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về nội dung vụ án:

Xét thấy, việc Nguyễn Thị C yêu cầu Nguyễn Văn Bé L trả tiền vốn bán heo là 150.000.000đ, ngoài ra không yêu cầu gì. Để chứng minh cho yêu cầu của mình bà Xinh đã xuất trình được biên bàn làm việc của BND khóm 1, TT. Lai Vung. Thế nhưng, Tòa án đã thông báo cho ông Bé L biết về các tài liệu, chứng cứ mà bà C đã giao nộp cho Tòa án, trong đó có biên nhận vay tiền thông qua Thông báo về việc thụ lý vụ án và Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bị đơn theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bị đơn vẫn không có ý kiến thể hiện sự phản đối đối với chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án, đồng thời cũng không giao nộp các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình hoặc có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Điều này, chứng tỏ rằng ông Bé L đã không phản đối đối với chứng cứ mà bà C đã giao nộp cho Tòa án. Do đó Hội đồng xét xử nhận định việc ông Bé L có số tiền mua heo của bà C số tiền 15.000.000 đồng là có thật nên ông Bé L phải có nghĩa vụ trả cho bà C là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015.

[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị C được chấp nhận nên bị đơn Nguyễn Văn Bé L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định c ủa pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 463, Điều 466, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 và khoản 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92, Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị C về việc yêu cầu bị đơn Nguyễn Văn Bé L trả tiền mua heo còn nợ là 15.000.000đ.

Buộc ông Nguyễn Văn Bé L phải có nghĩa vụ trả cho bà C số tiền 15.000.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án mà người phải thi hành án chậm trả số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án, đến khi thi hành án xong.

2. Về án phí, tạm ứng án phí:

- Nguyễn Văn Bé L phải chịu 750.000đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Bà C đã được xét miễn, giảm tạm ứng án phí theo quy định.

3. Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 29/4/2020. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/DS-ST ngày 29/04/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:15/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lai Vung - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về