Bản án 15/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2019/HSST ngày 30 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng Đ, sinh năm 1990, tại thôn A, xã L, thị xã C, tỉnh H; nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Thôn A, xã L, thị xã C, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa(học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Nguyễn Đăng L và con bà Vũ Thị H; tiền sự: không; tiền án: 01 tiền án. Tại bản án số 77/2012/HSST ngày 28/9/2012 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh H xử phạt Đ 5 năm 2 tháng tù về tội Cướp tài sản và Trộm cắp tài sản, Đ chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2016, chưa được xóa án tích. Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 20/QĐ-XPVP ngày 30/3/2017 của Công an thị xã C, tỉnh H xử phạt vi phạm hành chính đối với Đ về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 03/4/2017 Đ chấp hành xong quyết định xử phạt. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/12/2018 tại Trại giam K, Công an tỉnh H đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Cháu Lưu Văn Q, sinh ngày 14/8/2002

Địa chỉ: Thôn G, xã T, thị xã C, tỉnh H; Vắng mặt.

- Người đại diện của bị hại:

1. Bà Ngô Thị L, sinh năm 1968

Địa chỉ: Thôn G, xã T, thị xã C, tỉnh H. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lưu Văn C, sinh năm 1969 và bà Ngô Thị L, sinh năm 1968

Đều có địa chỉ: Thôn G, xã T, thị xã C, tỉnh H; Vắng mặt.

2. Ông Phùng Đức T, sinh năm 1964

Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Q, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 00 phút ngày 30/11/2018, tại quán Net 99 thuộc đường S, khu dân cư T 2, phường S, thị xã C, tỉnh H, Nguyễn Đăng Đ ngồi cạnh làm quen và chơi trò “Liên Minh” cùng với cháu Lưu Văn Q, sinh ngày 14/8/2002, địa chỉ: Thôn G, xã T, thị xã C, tỉnh H. Khi thấy trên bàn trước mặt Q có chìa khóa xe máy, Đ nảy sinh ý định khi nào Q về sẽ đi nhờ và tìm cách chiếm đoạt chiếc xe máy của Q. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, Q thanh toán tiền và đi về, Đ đi theo và hỏi đi nhờ về dưới T. Q đồng ý và đưa chiếc xe nhãn hiệu Honbamdl,màu sơn xanh, biển số 34AB-029.01 cho Đ điều khiển, Q ngồi sau xe. Đến quốc lộ 37, qua cổng sân gofl khoảng 200m thuộc khu dân cư H, phường S, thị xã C, tỉnh H, Đ dừng lại và bảo Q: “Đứng đây đợi anh, anh mượn xe, anh vào nhà ông chú lấy mấy trăm tiêu”. Q tin là thật nên đồng ý và xuống xe đợi. Đại điều khiển xe của Q rẽ vào đường Q, sau đó đi ra đường T rồi tiếp tục đi ra Quốc lộ 18 hướng lên tỉnh B, đi đến thôn T, xã Đ, huyện Q, tỉnh B gặp và bán chiếc xe trên cho ông Phùng Đức T được 1.500.000đ. Đ đã tiêu sài hết số tiền này. Sau khi chờ không thấy Đ quay lại trả xe, ngày 02/12/2018, anh Q đã trình báo sự việc đến cơ quan cảnh sát Công an thị xã C, tỉnh H. Đến ngày 06/12/2018, Đ bị bắt tạm giam. Sau khi biết chiếc xe Honbamdl,màu sơn xanh, biển số 34AB-029.01 là do Đ thực hiện hành vi phạm tội mà có, ông Phùng Đức T đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã C để trả lại chiếc xe trên cho cháu Q.

Tại kết luận định giá tài sản số 30 ngày 04 tháng 12 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản UBND thị xã C kết luận: 01 chiếc xe nhãn hiệu Honbamdl,màu sơn xanh, dung tích 49cm3, biển số 34AB-029.01, mua mới tháng 7 năm 2018, tại thời điểm ngày 30/11/2018 trị giá: 11.000.000đ.

Tại Cáo trạng số 07/CT-VKSCL ngày 28-01-2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã C, tỉnh H đã truy tố Nguyễn Đăng Đ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị Tòa án:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự ; Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 06/12/2018. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng. Về vật chứng: Không đặt ra giải quyết.Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết. Về án phí: Bị cáo Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã C, Điều tra viên, VKSND thị xã C, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Đăng Đ tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng, kết luận định giá và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 30/11/2018, tại quốc lộ 37 thuộc khu dân cư H, phường S, thị xã C, tỉnh H, Nguyễn Đăng Đ dùng thủ đoạn gian dối, mượn xe rồi chiếm đoạt của cháu Lưu Văn Q chiếc xe máy nhãn hiệu Honbamdl,màu sơn xanh, dung tích 49 cm3, biển kiểm soát 34AB-029.01, trị giá: 11.000.000đ. Như vậy, có đủ căn cứ xác định Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản từ trước, rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt chiếc xe của bị hại trị giá 11.000.000đồng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử cân nhắc các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ sau: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội tại bản án này, bị cáo Đ phải chấp hành bản án trước, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính mặc dù bị cáo đã chấp hành xong, nhưng thể hiện bị cáo đã nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, phải cải tạo, chấp hành án tại trạm giam và không lấy đó là bài học mà tiếp tục thực hiện các hành vi phạm tội sau nên cần áp dụng một hình phạt thỏa đáng, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để rèn luyện bị cáo trở thành người có ích, đồng thời răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát Công an thị xã C đã thu giữ: 01 chiếc xe nhãn hiệu Honbamdl,màu sơn xanh, dung tích 49cm3, biển số 34AB-029.01. Đây là tài sản hợp pháp của cháu Q, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã C đã trả lại cho cháu Q là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 47 BLHS; điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Cháu Lưu Văn Q đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Ông Lưu Văn C là chủ sở hữu chiếc xe nhãn hiệu Honbamdl,màu sơn xanh, dung tích 49cm3, biển số 34AB-029.01 cũng không yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đối với số tiền Phùng Đức T trả tiền mua xe, bà H là mẹ bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho ông T, ông T và bà H không có yêu cầu nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Trong vụ án, ông Phùng Đức T không biết Đ thực hiện hành vi phạm tội nên không đặt ra xem xét xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo Đ có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của BLHS; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của BLTTHS 2015; Luật phí, lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25 tháng 11 năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đăng Đ phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng Đ 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 06/12/2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

2. Về xử lý vật chứng: Không đặt ra giải quyết.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đăng Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, đại diện của bị hại có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Chí Linh - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về