Bản án 15/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 15/2019/HS-ST NGÀY 18/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2019/HSST ngày 20 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST-HS ngày 07/6/2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Văn Tr; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1992, tại tỉnh Lào Cai; Nơi ĐKHKTT: Thôn P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Lào Cai; Chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 9, phường P, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn S (đã chết) và con bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1959); Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2018 đến ngày 06/01/2019 chuyển tạm giam, ngày 22/01/2019 bị cáo được áp dụng biện pháp Bảo Lĩnh. Ngày 06/4/2019 bị cáo bị bắt tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Nguyễn Mạnh H; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1980, tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 10, phường Đ, thành phố C, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc K (sinh năm 1938) và con bà Đinh Thị T (sinh năm 1944 ); Vợ: Đoàn Thị N (sinh năm 1983), con: có 03 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền sự: Không; Tiền án: có 01 tiền án (Tại bản án số 23/2017/HSST ngày 16/3/2017 Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 18 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”). Ngày 20/6/2018 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù đến lần phạm tội này chưa được xóa án tích theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/12/2018 đến ngày 06/01/2019 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay.

- Người làm chứng: Nguyễn Văn T, sinh năm: 1980

Nơi ĐKNKTT: Giao T, Giao Th, Nam Định

Địa chỉ: Tổ 12, phường T, thành phố C, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Khoảng 12 giờ ngày 28/11/2018 tại khu vực cây xăng gần bờ hồ Thủy Sơn, thuộc phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Nguyễn Mạnh H cùng Nguyễn Văn T cùng nhau góp được 150.000đồng (H có 50.000đồng, T có 100.000đồng), mục đích mua Heroin về để sử dụng. Sau đó H tự đi đến số nhà 098, đường M, thuộc tổ 9, phường P, thành phố C để mua heroin. Đến cổng số nhà 098, có Nguyễn Văn Tr ra mở cổng, qua trao đổi Tr đồng ý bán heroin cho H. H đưa cho Tr 150.000đồng, nhận tiền, Trư đưa cho H đoạn ống nhựa (loại ống hút màu đen) được hàn kín 2 đầu bên trong có chứa heroin. Mua được heroin H đi ra cây xăng gặp T, rồi cả hai cùng về tổ 2, phường Quyết Tiến, thành phố Lai Châu tìm chỗ sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và bị thu giữ: 01 đoạn ống nhựa (loại ống hút màu đen) được hàn kín hai đầu, 01 xy lanh màu trắng, 01 lọ Novocain.

Căn cứ lời khai của Nguyễn Mạnh H, cơ quan điều tra đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn Tr tại số nhà 098, đường Trần Quốc Mạnh, thuộc tổ 9, phường Tân Phong. Trong khi chuẩn bị khám xét Cơ quan điều tra phát hiện có đối tượng trên tầng 2 của nhà số 098 ném một vật thể sang mái tôn nhà bên cạnh (số nhà 096). Kết quả khám xét Cơ quan điều tra thu được 01 vỏ lọ kẹo Xylitol màu trắng, hồng, bên trong có 02 túi nilon, 01 túi bên trong chứa 01 túi chất tinh thể màu trắng, 01 túi chứa chất bột màu trắng.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn Tr thừa nhận đã bán Heroin cho H với giá 150.000đồng và ném vỏ lọ kẹo Xylitol màu hồng, trắng bên trong có 01 gói Heroin và 01 gói ma túy đá của mình qua song cửa sổ tầng 2 số nhà 098 sang mái tôn số nhà 096 đường Trần Quốc Mạnh, tổ 9, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Tr tàng trữ số ma túy này nhằm mục đích nếu ai hỏi mua thì bán.

Ngày 28/12/2018 tại cơ quan điều tra Tr đã tự nguyện giao nộp số tiền 1.450.000đồng (một triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) trong đó có số tiền 150.000đồng là tiền Tr bán Heroin cho H mà có.

Tại phiên tòa Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Văn Tr thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án

Theo biên bản mở niêm phong ngày 28/12/2018 xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Mạnh H có khối lượng 0,08 gam, Cơ quan điều tra đã lấy toàn bộ gửi giám định. Theo biên bản mở niêm phong ngày 28/12/2018 xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn Tr, gói nilon có chất bột màu trắng có khối lượng 3,58 gam, trích 0,79 gam (ký hiệu M1) gửi giám định, gói nilon có chứa chất tinh thể màu trắng có khối lượng là 1,40 gam (ký hiệu M2) lấy toàn bộ gửi giám định.

Kết luận giám định số 56/GĐ-KTHS ngày 31/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M1) thu giữ của Nguyễn Văn Tr trong quá trình khám nghiệm hiện trường ngày 28/12/2018 gửi đến giám định là ma túy loại heroin. Mẫu tinh thể màu trắng 1,40 gam (ký hiệu M2) thu giữ của Nguyễn Văn Tr trong quá trình khám nghiệm hiện trường ngày 28/12/2018 gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine. 

Kết luận giám định số 57/GĐ-KTHS ngày 31/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Gói chất bột khô màu trắng có khối lượng là 0,08 gam thu giữ trong quá tình bắt quả tang của Nguyễn Mạnh H và Nguyễn Văn T gửi đến giám định là ma túy loại heroin.

Về nguồn gốc số ma túy của Nguyễn Văn Tr: Theo lời khai của Tr số Heroin Tr bán cho H và số Heroin còn lại là Tr mua của một người đàn ông Tr không biết tên, địa chỉ ở xã Pa So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu vào khoảng ngày 21, 22/12/2018. Còn số ma túy đá của Tr là do một người bạn tên T (Tr không rõ nhân thân, lai lịch) cho Tr vào cuối năm 2017. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ làm rõ hành vi của những người đã bán, đã cho Tr ma túy để xem xét trách nhiệm.

Đối với hành vi của Nguyễn Văn T với Nguyễn Mạnh H tàng trữ 0,08 gam Heroin. Công an thành phố Lai Châu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T.

Còn Nguyễn Mạnh H trước đó đã bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đến khi thực hiện hành vi lần này chưa được xóa án tích. Nên Bản cáo trạng số 14/CT-VKSTP ngày 17/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Nguyễn Văn Tr đã bán trái phép 0,08 gam Heroin cho Nguyễn Mạnh H vì vậy Nguyễn Văn Tr phải chịu trách nhiệm đối với tổng khối lượng ma túy đã bán cho H và khối lượng ma túy Tr tàng trữ với mục đích để bán. Theo Điều 4 nghị định 19 ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015, tổng khối lượng ma túy mà Tr phải chịu trách nhiệm là: 0,08 gam heroin + 3,58 gam Heroin

+ 1,40 gam Methamphetamine = 5,06 gam. Vì vậy, Bản cáo trạng số 14/CT-VKSTP ngày 17/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Nguyễn Văn Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo

về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 12 đến 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ từ ngày 28/12/2018 đến ngày 06/01/2019; Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Tr từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2018 đến ngày 22/01/2019.

Áp dụng khoản 5 Điều 249, khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

Xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 2,79 gam Heroin còn lại sau giám định, 03 túi nilon, 01 lọ nhựa màu hồng trắng (loại lọ đựng kẹo xylitol), 01 đoạn ống nhựa (loại ống hút màu đen), 01 xylanh, 01 lọ Novocain; Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 150.000đồng là tiền của Nguyễn Văn Tr do phạm tội mà có; Trả lại cho Nguyễn Văn Tr số tiền 1.300.000đồng không liên quan đến tội phạm.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Mạnh H không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của kiểm sát viên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Mạnh H thể hiện việc nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Khoảng hơn 12 giờ, ngày 28/12/2018, tại số nhà 098, đường Trần Quốc Mạnh thuộc tổ 9, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu Nguyễn Văn Tr vì mục đích tư lợi cá nhân đã bán trái phép 0,08 gam Heroin với giá 150.000đồng cho Nguyễn Mạnh H. Số Heroin còn lại là 3,58 gam và 1,40 gam Methamphetamine Nguyễn Văn Tr tàng trữ nhằm mục đích để bán thì bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu phát hiện, thu giữ.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Mạnh H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Ý thức được điều đó nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân (bị cáo Tr) và để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân (bị cáo H) các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi tàng trữ 0,08 gam Heroin của bị cáo Nguyễn Mạnh H trong thời gian chưa được xóa án tích đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…a, Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội được quy định tại các Điều 248,250,251 và 252 của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

Nguyễn Văn Tr phải chịu trách nhiệm đối với tổng khối lượng chất ma túy mà Tr đã bán cho H và khối lượng ma túy mà mình tàng trữ để bán. Theo Điều 4 Nghị định 19/2018 ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015, tổng khối lượng ma túy mà Tr phải chịu trách nhiệm là: 0,08 gam heroin + 3,58 gam Heroin + 1,40 gam Methamphetamine = 5,06 gam, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Tr cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“ 1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: 

...i, Heroin, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

...p, Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này.”

Vì vậy, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Mạnh H có nhân thân xấu, trước lần phạm tội này bị cáo Tr đã 03 lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo H cũng 02 lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, và 01 lần bị Tòa án xét xử về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” các bị cáo đều phải đi chấp hành án và chịu sự giáo dục nghiêm khắc, nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội.

Bị cáo Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Mạnh H trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo H trong quá trình điều tra đã tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra phát hiện tội phạm khác, nên ngày 26/4/2019 Cơ quan điều tra đã có công văn số 62 xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H. Ngoài ra bị cáo H còn có bố là ông Nguyễn Ngọc K được Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, có mẹ là bà Đinh Thị T được Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, áp dụng thêm cho bị cáo H tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: 2,79 gam Heroin còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 03 túi nilon, 01 lọ nhựa màu hồng trắng (loại lọ đựng kẹo xylitol) 01 đoạn ống nhựa (loại ống hút màu đen), 01 xylanh, 01 lọ Novocain là vật chứng liên quan đến tội phạm và vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; 

Số tiền150.000 đồng là tiền của Nguyễn Văn Tr do phạm tội mà có nên cần Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Số tiền 1.300.000đồng không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho Nguyễn Văn Tr theo điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về các vấn đề khác:

Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra không có cơ sở làm rõ nhân nhân, lai lịch của những người đã bán, đã cho Nguyễn Văn Tr ma túy, nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ làm rõ hành vi của những người đã bán, đã cho Tr ma túy để xem xét trách nhiệm.

Đối với hành vi Nguyễn Văn T tàng trữ 0,08 gam Heroin, khối lượng ma túy này chưa đủ định lượng để xử lý trách nhiệm hình sự đối với T theo quy định của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Công an thành phố Lai Châu đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T là phù hợp.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Mạnh H; điểm p khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn Tr; Căn cứ điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

3. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 13 (Mười ba) tháng tù, khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ từ ngày 28/12/2018 đến ngày 06/01/2019, bị cáo còn phải chấp hành 12 (Mười hai) tháng 20 (Hai mươi) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào trại chấp hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tr 07 (Bảy) năm 02 (Hai) tháng tù, khấu trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2018 đến ngày 22/01/2019 (26 ngày), bị cáo còn phải chấp hành 07 (Bảy) năm 01 (Một) tháng 04 (Bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2019.

4. Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy: 2,79 gam Heroin còn lại sau giám định, 03 túi nilon, 01 lọ nhựa màu hồng trắng (loại lọ đựng kẹo xylitol) 01 đoạn ống nhựa (loại ống hút màu đen), 01 xylanh, 01 lọ Novocain.

- Tịch thu số tiền150.000 đồng của Nguyễn Văn Tr nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Trả lại số tiền 1.300.000đồng cho bị cáo Nguyễn Văn Tr. (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 17/5/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

5. Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HS-ST ngày 18/06/2019 về tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về