Bản án 15/2019/HSST ngày 06/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 15/2019/HSST NGÀY 06/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Khắc P; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 10/10/1968;

Nơi cư trú: Tổ 02, xã M, thành phố Đ, tỉnh B.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ xây; Trình độ văn hóa: 06/10 phổ thông; Con ông: Phạm Khắc Ph (Đã chết); Con bà: Lưu Thị T - sinh năm 1941 (Còn sống); Vợ: Nguyễn Thị N; Bị cáo chưa có con; Tiền án, tiền sư: Không. Bị tạm giữ từ ngày 29/10/2018, sau đó bị tạm giam cho đến ngày xét xử. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: (có mặt)

Chị Nguyễn Thị N - Sinh năm: 1968

Địa chỉ: Tổ 02, xã M, thành phố Đ, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 10 phút ngày 29/10/2018, Công an thành phố Đ làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 05, phường Thanh Bình, thành phố Đ phát hiện, bắt quả tang và thu giữ trong túi quần bên trái phía trước Phạm Khắc P đang mặc 01 gói nhỏ bên trong có các cục chất bột màu trắng đục và 01 gói nhỏ bên trong có 06 viên nén màu hồng, đều cất giấu trong bao thuốc lá Kent, thu giữ trong túi quần bên Pi phía trước 03 ống Novocain 3% và 01 bơm kim tiêm loại 3ml. Bị cáo P khai đó là ma túy và dụng cụ dùng để sử dụng ma túy.P khai nhận: Khoảng 04 giờ 50 phút ngày 29/10/2018, P điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 27B1- 382.20 đến khu vực ngã tư gần cầu Mường Thanh thuộc tổ dân phố 06,phường Mường Thanh, thành phố Đ mua của 01 người đàn ông tự xưng tên là Hà, bị cáo không biết tuổi, địa chỉ với giá 200.000đ, rồi điều khiển xe mô tô về khu vực tổ 05, phường Thanh Bình thì bị Công an thành phố Đ phát hiện, bắt giữ.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 29/10/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ và kết luận giám định số 42/GĐ-PC09 ngày05/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,15 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,56gam.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKS-TPĐBP ngày 30/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ đã truy tố bị cáo Phạm Khắc P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Khắc P từ 24 đến 30 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thutiêu hủy 0,12 gam heroine, 0,53 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định), 01vỏ bao thuốc lá Kent, 01 mảnh  giấy bạc màu trắng, 02 mảnh giấy vệ sinh màu trắng, 02 mảnh nilon màu trắng trong suốt, 03 ống Novocain 3% loại 2ml, 01 bơm kim tiêm loại 3ml đã qua sử dụng. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 106 BLTTHS, trả lại cho chị Nguyễn Thị N chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA FUTURE, biển kiểm soát 27B1- 382.20 kèm chìa khóa xe. Bị cáo Pi chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Phạm Khắc P không có lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 15 giờ 10 phút ngày 29/10/2018, tại khu vực tổ 05, phường Thanh Bình, thành phố Đ, tỉnh B Phạm Khắc P đã có hành vi cất dấu trái phép trên người 0,15 gam Heroine và 0,56 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 30 phút  ngày 29/10/2018, biên bản niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 29/10/2018, kết luận giám định số 42/GĐ-PC09 ngày 05/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,15 gam; Mẫu viên nén màu hồng là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,56gam.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo,với mục đích để sử dụng là phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tạiđiểm i khoản 1 Điều 249/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, Phạm Khắc P phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích trên khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B truy tố bị cáo Phạm Khắc P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tạiđiểm i khoản 1 Điều 249 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Bị cáo Phạm Khắc P là người nghiện ma túy, bị cáo nhận thức rõ hành vi cất dấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì vậy mức hình phạt mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

 [3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy. Bị cáo là người có nhân thân xấu. Ngày 31/03/2000 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Đ (Nay là tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B) xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 18/10/2001 bị cáo bị Tòa án nhân dân thị xã Đ xử phạt 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, các bản án này bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần Pi áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện cai nghiện, đồng thời để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

 [4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS, thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo tuy là thợ xây nhưng thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [5]. Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của một người đàn ông tên là Hà nhưng không biết địa chỉ của người này, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [6]. Vật chứng: 0,12 gam Heroine, 0,53 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định) là vật nhà nước cấm tàng trữ, 01vỏ bao thuốc lá Kent, 01 mảnh giấy bạc màu trắng, 02 mảnh giấy vệ sinh màu trắng, 02 mảnh nilon màu trắng trong suốt, 03 ống Novocain 3% loại 2ml, 01 bơm kim tiêm loại 3ml đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA FUTURE, màu sơn đen, số máy JC54E-3044701, số khung RLHJC5381EZ029004, BKS 27B1-382.20 kèm chìa khóa xe là tài sản riêng của chị N, chị N không biết bị cáo mượn tài sản để dùng vào việc phạm tội, nên cần trao trả số tài sản trên cho chủ sở hữu là chị Nguyễn Thị N.

 [7]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo Pi chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Phạm Khắc P phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt bị cáo Phạm Khắc P  30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (29/10/2018).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS,  điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 0,12 gam Heroine, 0,53 gam Methamphetamine (vật chứng hoàn lại sau giám định) , 01vỏ bao thuốc lá Kent, 01 mảnh giấy bạc màu trắng, 02 mảnh giấy vệ sinh màu trắng, 02 mảnh nilon màu trắng trong suốt, 03 ống Novocain 3% loại 2ml, 01 bơm kim tiêm loại 3ml đã qua sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/02/2019 giữa Công an thành phố Đ và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh B).

Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 106 BLTTHS, trả lại cho chị Nguyễn Thị N chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA FUTURE, màu sơn đen, số máy JC54E-3044701, số khung  RLHJC5381EZ029004, BKS 27B1-382.20 kèm chìa khóa xe.

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136/BLTTHS, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo Pi chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án . Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (06/3/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HSST ngày 06/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về