Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI B ÌNH

 BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 185/2018/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 12 năm 2018, về  tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lại Thị L,sinh năm 1981

- Bị đơn: Anh Nghiêm Đăng Tr , sinh năm 1978. Đều trú tại: thôn K , xã Q , huyện K , tỉnh Thái Bình.

( Chị L , anh Tr có mặt tại phiên tòa )

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn chị Lại Thị L có yêu cầu khởi kiện và trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân:

Chị và anh Nguyễn Đăng Tr  tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q  ngày 16/11/2001. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng bố mẹ chồng, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc đến gần đây thì phát sinh mâu thuẫn căng thẳng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng trong cuộc sống, anh Tr   đánh chị nhiều lần, chị đã về sống tại nhà bố mẹ đẻ, ly thân với anh Tr . Đến nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Tr .

Về con chung: Chị và anh Tr  có có 03 con chung là Nghiêm Thị Minh Ng , sinh ngày 30/03/2002, Nghiêm Đăng T , sinh ngày 03/08/2010 và Nghiêm Thị Diễm L , sinh ngày 03/11/2012, ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Nghiêm Thị Diễm L , chị đồng ý để anh Tr  trực tiếp nuôi các con Nghiêm Thị Minh Ng , Nghiêm Đăng T . Chị không yêu cầu anh Tr  cấp dưỡng cho con đối với chị vì chị cũng có thu nhập trung bình hàng tháng là 05 triệu đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Nghiêm Đăng Tr  trình bày:

Về quá trình chung sống từ khi kết hôn đến thời gian hai năm trở về trước thì cuộc sống vợ chồng vui vẻ bình thường. Nhưng hai năm trở lại đây thì phát sinh mâu thuẫn do chị L  đi làm thêm bảo hiểm và làm tóc dẫn đến không quan tâm tới công việc ở nhà, việc chăm sóc con cái, anh góp ý thì không nghe. Có lần do bực tức anh có tát chị L . Nay chị L xin ly hôn, anh chấp nhận ly hôn vì chị L cố tình xin ly hôn.

Về con chung: Anh và chị L  có 03 con chung như chị L  khai, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả 03 con, nếu không được nuôi cả 03 con thì anh xin được nuôi 02 con lớn. Việc cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu đối với chị L  vì thu nhập của anh ổn định hàng tháng là 09 triệu đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q  ngày 11/01/2019 cán bộ đại diện cho Đoàn thể, đại diện chính quyền cung cấp cho biết: Chị L  và anh Tr  có hộ khẩu thường trú, sinh sống tại xã Q , đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q , huyện K , tỉnh Thái Bình vào ngày 16/11/2001, cuộc sống của vợ chồng hòa thuận bình thường, nhưng gần đây phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong việc làm ăn. Đã có lần mâu thuẫn căng thẳng anh Tr  có hành vi bạo lực với chị L , anh còn uống thuốc diệt cỏ để tự tử nhưng được cấp cứu kịp thời nên được cứu sống. Đến nay chị L  xin ly hôn, anh Tr  không đồng ý ly hôn nên đề nghị Tòa án hòa giải để đoàn tụ, nếu không được thì Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

-  Tòa án  lấy lời  khai  của  ông  Nghiêm Đăng  Kh    (bố  đẻ anh  Tr  ) ngày 11/01/2019 : Thời gian 02 năm trở lại đây vợ chồng anh Tr  phát sinh mâu thuẫn, lý do là chị L  tham gia làm bảo hiểm và mở tiệm làm tóc nên bỏ bê công việc gia đình, có lần anh Tr  có tát chị L , anh Tr  đã uống thuốc để tự tử nhưng đã được cứu sống. Đến nay chị L  xin ly hôn thì ông muốn các anh chị trở lại đoàn tụ, nếu không được thì cho ly hôn. Về con chung của vợ chồng anh Tr , nếu ly hôn thì nên giao cho anh Tr  nuôi cả 03 con, vì chị L  không có nhà ở, không có thu nhập ổn định. Về tài sản: nhà ở của vợ chồng anh Tr  nếu ly hôn thì nên để lại cho 03 con của anh chị Tr  L .

- Tòa án lấy lời khai đối với các con đã trên 7 tuổi của anh Tr  chị L : Các cháu Nghiêm Thị Minh Ng , Nghiêm Đăng T : Các cháu đều có nguyện vọng muốn được ở với bố nếu bố mẹ ly hôn.

* Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình thụ lý vụ án đúng quy định theo điều 28 và điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Do vợ chồng  thường xảy ra mâu thuẫn, đến nay anh Tr cũng đồng ý ly hôn với chị L , nên đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn anh Tr ;

Về con chung: Giao cho chị L  trực tiếp nuôi con Nghiêm Thị Diêm L , giao cho anh Tr trực tiếp nuôi các con Nghiêm Thị Minh Ng và Nghiêm Đăng T là phù hợp với quy định tại điều 81 và điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình.

Việc cấp dưỡng nuôi con, hai bên không yêu cầu. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về án phí: chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, hội đồng xét xử nhận định:

 [I] Về pháp luật tố tụng:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị L và anh Tr có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình, chị Lan có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Do vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự tham gia phiên tòa của Viện Kiểm sát: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh tại UBND xã Quang Bình và thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân và địa chỉ cư trú của nguyên đơn, bị đơn vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[II] Về pháp luật nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân của chị L và anh Tr có giấy chứng nhận kết hôn, đó là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống của vợ chồng hòa thuận tương đối dài, thời gian khoảng 02 năm trở lại đây mới phát sinh mâu thuẫn do không tin tưởng nhau trong quan hệ vợ chồng, bất đồng trong việc tính toán làm ăn, có lần xô xát anh Tr đã đánh chị L. Đến nay chị L đã về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng không quan tâm đến nhau, chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nữa, tuy anh Tr muốn đoàn tụ nhưng chị L không đồng ý nên anh cũng chấp nhận ly hôn. Như vậy chứng tỏ hôn nhân giữa chị L và anh Tr đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Tr là phù hợp với quy định tại điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2]  Về con chung: Chị L và anh Tr có có 03 con chung là Nghiêm Thị Minh Ng, sinh ngày 30/03/2002, Nghiêm Đăng T , sinh ngày 03/08/2010 và Nghiêm Thị Diễm L, sinh ngày 03/11/2012. Xét theo nguyện vọng và khả năng của các bên và nguyện vọng của các con thì nên giao cho chị L trực tiếp nuôi con L, giao cho anh Tr trực tiếp nuôi các con Ng và T. Do anh Tr và chị L đều không yêu cầu nhau đóng góp để cấp dưỡng cho con, đây là sự tự nguyện nên được chấp nhận.

Như vậy là phù hợp với với quy định tại điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình. [3]  Về tài sản chung: Vì chị L và anh Trđều không yêu cầu giải quyết về tài sản, nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí:

Chị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Lại Thị L được ly hôn anh Nghiêm Đăng Tr.

2. Về con chung:

- Giao cho chị Lại Thị L trực tiếp nuôi con Nghiêm Thị Diễm L, sinh ngày 03/11/2012.

- Giao cho anh Nghiêm Đăng Tr trực tiếp nuôi hai con là Nghiêm Thị Minh Ng, sinh ngày 30/03/2002, Nghiêm Đăng T, sinh ngày 03/08/2010. 

- Chấp nhận việc anh Tr và chị L không phái đóng góp cho nhau để cấp dưỡng cho con.

- Chị L và anh Tr có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Chị  L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị L đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001202  ngày 21/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chị L đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai, nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về