Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 19/2019/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐXX-ST ngày 11 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14 ngày 28/3/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tạ Thị T , sinh năm 1970 (Vắng mặt)

HKTT: Số ... THĐ, phường NN, TP TH, tỉnh TH.

- Bị đơn: Anh Ngô Ngọc M , sinh năm 1962 (Vắng mặt)

HKTT: Số ... THĐ, phường NN, TP TH, tỉnh TH.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/10/2018 và trong giải quyết vụ án, nguyên đơn, chị Tạ Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Ngô Ngọc M tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/3/1992. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh M không quan tâm chăm lo cho gia đình, thường xuyên lô đề bài bạc. Gia đình đã nhiều lần khuyên bảo góp ý, bản thân chị đã nhiều lần phải vay mượn để trả nợ tiền bài bạc cho anh M , nhưng anh M không sửa đổi. Cuộc sống vợ chồng nặng nề căng thẳng. Nên năm 2015 chị đã phải làm đơn ly hôn nhưng được hòa giải nên chị rút đơn cho anh M cơ hội sửa chữa lỗi lầm. Nhưng anh M vẫn tiếp tục lô đề bài bạc, vợ chồng thường xuyên bất hòa, cuộc sống chung không hạnh phúc. Bản thân chị cũng đã cố gắng khắc phục, chịu đựng nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, bế tắc. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 9/2018 đến nay, tuy sống chung một nhà nhưng việc ai người đó làm, không còn quan tâm đến nhau.

Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị kiên quyết đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị ly hôn anh Ngô Ngọc M.

Về phía bị đơn Ngô Ngọc M , tại bản tự khai ngày 15/01/2019 và phiên hòa giải anh Ngô Ngọc M khai thống nhất với lời khai của chị T về thời gian và điều kiện kết hôn. Về mâu thuẫn vợ chồng anh xác nhận vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, do anh chơi bời bài bạc ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, năm 2015 chị T đã làm thủ tục ly hôn sau đó được hòa giải nên chị T rút đơn để vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị T không động viên giúp đỡ mà coi thường anh nên anh tiếp tục lô đề nợ nần ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Nay anh vẫn mong muốn đoàn tụ gia đình, anh không đồng ý ly hôn, song Tòa án đã hòa giải, chị T vẫn kiên quyết ly hôn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Chị Tạ Thị T và anh Ngô Ngọc M khai thống nhất: Vợ chồng có 02 con chung là Ngô Ngọc A , sinh ngày 02/01/1993 và Ngô Đức A , sinh ngày 18/10/2001. Nay ly hôn, anh M và chị T đều xin được trực tiếp nuôi con chung Ngô Đức A và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con. Ngô Ngọc A đã thành niên, phát triển bình thường, anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Tạ Thị T và anh Ngô Ngọc M đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 17/01/2019 Ngô Đức A xin được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

Ngày 14/02/2019 Tòa án tiến hành xác minh tại phường NN, TP. TH. Kết quả xác định: Giữa chị T và anh M có phát sinh mâu thuẫn, năm 2016 chị T đã làm đơn xin ly hôn sau đó chị rút đơn. Nay chị tiếp tục làm đơn ly hôn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh M không tu chí làm ăn, thường xuyên rượu chè bài bạc. Anh chị có 02 con chung cháu lớn đã đi làm, cháu nhỏ đang học phổ thông. Về điều kiện nuôi con thì chị T nuôi con phù hợp hơn vì lâu nay chị là người gánh vác chăm lo con cái và phát triển kinh tế gia đình.

Tại phiên hòa giải ngày 07/3/2019, chị T giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong bản tự khai, chị kiên quyết xin ly hôn. Anh M không đồng ý ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa ngày 28/3/2019, chị T có mặt, anh M vắng mặt lần thứ nhất, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa đồng thời ấn định thời gian mở phiên tòa lần thứ 2 vào ngày 19/4/2019. Quyết định hoãn phiên tòa đã tống đạt hợp lệ cho anh Ngô Ngọc M

Tại phiên tòa hôm nay anh Ngô Ngọc M vắng mặt; chị Tạ Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, về nội dung chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh M về con chung chị xin nuôi cháu Ngô Đức A và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện VKS: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và HĐXX; Việc chấp hành pháp luật của chị T kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân thủ đúng quy định, anh M chưa chấp hành đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn, anh Ngô Ngọc M đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đến phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay, anh M vắng mặt lần thứ 2, chị Thủy có đơn xin xét xử vắng mặt, HĐXX căn cứ quy định tại Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt anh Ngô Ngọc M và chị Tạ Thị T

[2] Về hôn nhân: Chị Tạ Thị T và anh Ngô Ngọc M tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/3/1992 như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh M không quan tâm chăm lo đời sống gia đình, chơi bời bài bạc dẫn đến nợ nần làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế gia đình và tinh thần của vợ con. Nay chị T kiên quyết ly hôn vì xác định vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T anh M đã thực sự trầm trọng, Tòa án hòa giải không thành, chị T kiên quyết xin ly hôn. Xét yêu cầu ly hôn của chị T là có cơ sở, do vậy, căn cứ vào Điều 56 Luật HNGĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T

[3] Về con chung: Chị Tạ Thị T và anh Ngô Ngọc M ó 02 con chung là Ngô Ngọc A sinh ngày 02/01/1993 và Ngô Đức A sinh ngày 18/10/2001. Chị T và anh M đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Đức A và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con chung. Xét nguyện vọng của chị T anh M là hoàn toàn chính đáng và phù hợp quy định của pháp luật. Song thực tế chị T đang là người trực tiếp chăm lo việc học hành sinh hoạt của cháu Đức A Cháu Đức A có nguyện vọng được ở với mẹ. Do vậy, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi và nguyện vọng chính đáng của con, HĐXX giao Đức A cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Cháu Ngọc A đã thành niên HĐXX không xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Tạ Thị T là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 6; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 - Bộ luật tố tụng Dân sựKhoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Xử cho chị Tạ Thị T ly hôn anh Ngô Ngọc M

- Về con chung: Giao cháu Ngô Đức A sinh ngày 18/10/2001 là con chung của chị T anh M cho chị Tạ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Ngô Ngọc M không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T Cháu Ngô Ngọc A đã thành niên HĐXX không xét.

Anh Ngô Ngọc M có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Tạ Thị T và anh Ngô Ngọc M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Tạ Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0006613 ngày 05/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Chị T đã nộp đủ án phí.

- Về quyền kháng cáo: Chị Tạ Thị T anh Ngô Ngọc M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 19/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về