Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 02/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 02/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Vào ngày 02/5/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 603/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2018 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Mai Tr - Sinh năm: 1984.

Địa chỉ: ấp N, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T- Sinh năm: 1982.

Địa chỉ: Ấp N, xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Tr, anh T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện đề ngày 10/12/2018 và trong quá giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Bùi Thị Mai Tr trình bày:

Trên cơ sở tự nguyện, chị Bùi Thị Mai Tr và anh Nguyễn Văn T sống chung và đăng ký kết hôn năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Đây là lần kết hôn đầu tiên của anh chị.

Sau khi kết hôn, chị và anh T sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Mặt khác, anh Nguyễn Văn T thường xuyên cờ bạc mặc dù chị Tr đã khuyên giải nhiều lần nhưng anh T không nghe dẫn đến mâu thuẫn về tiền bạc. Chị Tr và anh T không còn chung sống với nhau từ tháng 9/2018 cho đến nay. Nay chị Tr không còn tình cảm với anh T nên yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị Tr và anh T có 02 con chung Nguyễn Ngọc Nhã Đ, sinh ngày: 08/5/2003 và Nguyễn Gia Kh, sinh ngày: 20/9/2011. Hiện nay, cháu Đ và cháu Kh đang sinh sống với chị Tr. Khi ly hôn, chị Tr yêu cầu nuôi hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có Về nợ chung: không có.

Về án phí: Chị Tr đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Văn T được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia giải quyết vụ án nhưng anh Nguyễn Văn T vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án không thu thập được ý kiến của anh Nguyễn Văn T đối với yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Mai Tr.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Việc chấp hành pháp luật về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu, thực hiện các thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc không có kiến nghị gì về tố tụng.

Về nội dung: chị Bùi Thị Mai Tr và anh Nguyễn Văn T kết hôn năm 2002. Trong cuộc sống vợ chồng, chị Tr và anh T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tr với anh T. Hiện nay cháu Đ và cháu Kh hiện đang ở với chị Tr và có nguyện vọng được ở với chị Tr nên đề nghị Hội đồng xét xử giao hai con chung là cháu Nguyễn Ngọc Nhã Đ, sinh ngày 08/5/2003 và cháu Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 20/9/2011 cho chị Bùi Thị Mai Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thủ tục tố tụng: Chị Bùi Thị Mai Tr có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Bùi Thị Mai Tr theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự và xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn T theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Mai Tr và anh Nguyễn Văn T tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau vào năm 2002 tại UBND xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Do đó, quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu của các đương sự thì thấy: Chị Tr yêu cầu được ly hôn với anh T vì chị Tr cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, bất đồng quan điểm sống, tính tính không hợp, mâu thuẫn trầm trọng,a nh chị không còn chung sống với nhau từ tháng 9/2018 đến nay. Từ khi không còn sống chung anh chị bỏ mặc cuộc sống của nhau, mạnh ai người đó sống, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn T để làm việc và tiến hành hòa giải nhưng anh Nguyễn Văn T đều vắng mặt không có lý do, điều đó cho thấy anh T không có thiện chí đoàn tụ vợ chồng. Mặt khác, tại biên bản xác minh ngày 27/12/2018 thể hiện anh Nguyễn Văn T sinh sống và đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp N, xã Đ, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai và tình trạng hôn nhân của anh T và chị Tr khi xảy ra mâu thuẫn không báo với chính quyền địa phương để tiến hành hòa giải. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định mâu thuẫn giữa vợ chồng chị Tr và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chấp nhận cho chị Tr được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: chị Tr có nguyện vọng nuôi dưỡng con hai con chung là cháu Nguyễn Ngọc Nhã Đ, sinh ngày 08/5/2003 và cháu Nguyễn Gia Kh, sinh ngày 20/9/2011 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T vắng mặt nên không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện nay Đoan và cháu Kh đang sinh sống cùng với chị Tr và có nguyện vọng ở với chị Tr nên cần thiết giao hai con chung cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Chị Tr không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Tr xác định không có, anh T vắng mặt không có ý kiến nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Bùi Thị Mai Tr phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và các Điều 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Mai Tr.

Chị Bùi Thị Mai Tr được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Giy chứng nhận kết hôn số 08, quyển số 01/2002 do UBND xã Đ, huyện L, tỉnh Đồng Nai cấp ngày 11/4/2002 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Nhã Đ, sinh ngày: 08/5/2003 và Nguyễn Gia Kh, sinh ngày: 20/9/2011 cho chị Bùi Thị Mai Tr trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật.

Chị Bùi Thị Mai Tr không yêu cầu anh Nguyễn Văn T cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết.

Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung được pháp luật bảo vệ.

- Tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

- Về án phí: Chị Bùi Thị Mai Tr phải nộp 300.000đồng (ba trăm ngàn) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Số tiền 300.000đồng (ba trăm ngàn) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 003440 ngày 10/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Lộc được chuyển thành tiền án phí. Chị Bùi Thị Mai Tr đã nộp đủ.

Chị Bùi Thị Mai Tr và anh Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 02/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về