Bản án 15/2018/HS-ST ngày 30/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 30/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2018/TLST-HS, ngày 30 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 3 năm 2018, đối với bị cáo:

Lê Thị Như Q, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1993 tại Hải Phòng; nơi ĐKNKTT: CL, phường HV, quận HB, thành phố Hải Phòng; tạm trú: Đường QH, xã NS, huyện AD, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; có chồng là Đoàn Thanh T (đã chết), có một con sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ 18/10/2017, chuyển tạm giam từ 20/10/2017; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; địa chỉ: Phố QH, xã NS, huyện AD, thành phố Hải Phòng; có mặt.

+ Anh Lê Thanh T, sinh năm 1983, địa chỉ: Tổ HT, phường QT, quận HB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Vũ C; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Bùi Mạnh H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 18/10/2017, Lê Thị Như Q đang ở nhà thì Lê Thanh T gọi điện thoại đến hỏi mua hai gói ma túy đá, Q đồng ý và báo giá 450.000 đồng/1 gói. T hẹn Q ra khu vực ngã tư Metro để giao nhận ma túy. Q gọi đến số điện thoại 0971432... của một nam giới tên Đ (hiện chưa rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua hai gói ma túy để bán cho người khác, Đ đồng ý. Khoảng 10 phút sau Đ mang hai gói ma túy đến nhà giao cho Q và nói sau khi đem bán cho khách xong quay về thì sẽ trả cho Q 50.000 đồng. Q đi xe đạp điện đến khu vực ngã tư Metro để gặp T. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, tại khu vực ngã tư Metro Q gặp T và Nguyễn Vũ C. Q đưa hai gói ma túy cho T và nhận của T 500.000 đồng, nhận của C 450.000 đồng thì bị Công an quận Hồng Bàng kết hợp cùng Công an phường Sở Dầu bắt quả tang. Thu giữ trên người T hai gói ma túy và một điện thoại di động Nokia; thu giữ của Q một điện thoại di động Nokia, một xe đạp điện và số tiền 1.095.000 đồng.

Tại Kết luận giám định số: 1069/KLGĐ, ngày 20/10/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,436 gam, là loại Methamphetamine.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị Như Q đã khai nhận về hành vi bán ma túy là 0,436 gam Methamphetamine cho Lê Thanh T với mục đích được hưởng số tiền 50.000 đồng mà đối tượng Đ hứa trả công cho bị cáo sau khi bán được ma túy cho khách, bị Công an quận Hồng Bàng kết hợp cùng Công an phường Sở Dầu bắt quả tang khi đang giao ma túy và nhận tiền của T và C, tại khu vực ngã tư Metro, thuộc phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 18/10/2017, như nội dung nêu trên.

Cáo trạng số: 08/CT-VKS, ngày 26/01/2018, của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng đã quyết định truy tố bị cáo Lê Thị Như Q về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lê Thị Như Q như nội dung bản Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; tuyên phạt bị cáo Lê Thị Như Q với mức án từ 03 đến 04 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 18/10/2017.

Áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền 5.000.000 đồng đối với bị cáo để sung vào ngân sách nhà nước.

- Căn cứ Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

+ Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư niêm phong có dấu niêm phong số: 1069/PC54(MT), của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 950.000 đồng; 01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu xanh đã cũ (thu của Lê Thanh T) có số Imei 358264/03/644856/1 và 01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu xanh đã cũ (thu của Lê Thị Như Q) có số Imei 354185031313191;

+ Trả lại cho bị cáo Lê Thị Như Q số tiền 145.000 đồng.

- Đối với người đàn ông tên Đ, là người đã đưa ma túy cho Q để đem bán cho T, tài liệu điều tra chưa xác định được căn cước và lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

- Nội dung lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ về hình phạt đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hồng Bàng, Điều tra viên được phân công điều tra vụ án, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện, tuân thủ đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa bị cáo Lê Thị Như Q đã khai nhận về việc bán  ma túy qua giám định là 0,436 gam Methamphetamine cho Lê Thanh T với mục đích nhằm được hưởng số tiền 50.000 đồng mà đối tượng Đ hứa trả công cho bị cáo sau khi bán được ma túy cho khách. Bị cáo bị Công an quận Hồng Bàng kết hợp cùng Công an phường Sở Dầu bắt quả tang tại khu vực ngã tư Metro, thuộc phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng vào hồi 13 giờ 30 phút, ngày 18/10/2017, khi đang trực tiếp thực hiện việc giao ma túy và nhận tiền của T và C. Bị cáo chỉ thực hiện việc trao đổi qua điện thoại và trực tiếp giao ma túy cho một mình Lê Thanh T. Việc giữa T và C thỏa thuận với nhau trả tiền mua ma túy thì bị cáo không biết.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, được chứng minh bởi biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang được lập hồi 13 giờ 30 phút, ngày 18/10/2017, tại Công an phường Sở Dầu, quận Hồng Bàng, Hải Phòng.

Hành vi của bị cáo đã xâm hại các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính nguy hiểm do hành vi của mình gây ra những vẫn thực hiện các hành vi nêu trên với lỗi cố ý trực tiếp.

Như vậy, Hội đồng xét xử thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi như nội dung nêu trên của bị cáo Lê Thị Như Q đã có đủ yếu tố để cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy", quy định tại Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và tội danh tương ứng được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo đã trao đổi qua điện thoại về việc mua bán ma túy với Lê Thanh T và cũng trực tiếp giao ma túy cho Lê Thanh T. Việc giữa T và C có thỏa thuận với nhau trả tiền mua ma túy thì bị cáo không được biết. Do vậy Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng truy tố bị cáo Lê Thị Như Q về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, hành vi đó cần phải được xử lý nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa cũng như tại giai đoạn điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tình tiết giảm nhẹ này được áp dụng khi xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về áp dụng hình phạt đối với bị cáo: Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước ngày 01/01/2018, là ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có hiệu lực thi hành. Hội đồng xét xử phân tích so sánh các điều khoản tương ứng về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đều có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Do vậy, cần áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự năm 1999 để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy nhằm hưởng lợi nên cần phạt tiền 5.000.000 đồng là hình phạt bổ sung đối với bị cáo để sung vào ngân sách nhà nước.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, vật chứng của vụ án đã thu giữ được xử lý như sau:

Số ma túy Cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư có dấu niêm phong số: 1069/PC54(MT), của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc điện thoại di động NOKIA mầu xanh đã cũ (thu của Lê Thanh T) có số Imei 358264/03/644856/1 và điện thoại di động NOKIA mầu xanh đã cũ (thu của Lê Thị Như Q) có số Imei 354185031313191 và số tiền 950.000 đồng do Q, T, C sử dụng và được dùng để giao dịch mua bán trái phép ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Số tiền 145.000 đồng là của bị cáo Q không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành khoản tiền phạt và tiền án phí mà bị cáo phải chịu.

[8] Đối với việc Công an quận Hồng Bàng đã trả chiếc đạp điện cho bà Nguyễn Thị L (mẹ đẻ bị cáo Q): Tại phiên tòa bị cáo Q và bà L đều khai và xác nhận chiếc xe đó tài sản riêng của bà L, bà L không biết việc Q sử dụng chiếc xe để đi bán ma túy và bị cáo không có ý kiến gì về việc Công an quận Hồng Bàng đã trả chiếc xe này cho bà L.

[9] Đối với người đàn ông tên Đ là người đã đưa ma túy cho Q đem bán cho người khác, tài liệu điều tra chưa xác định được căn cước và lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ xử lý sau.

[10] Trong vụ án này còn có Lê Thanh T và Nguyễn Vũ C là người mua ma túy, Cơ quan Công an quận Hồng Bàng đã ra Quyết định xử lý hành chính đối với T và C.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt bị cáo Lê Thị Như Q 03 (Ba) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 18/10/2017.

Phạt tiền bị cáo Lê Thị Như Q 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng chẵn) để sung vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư niêm phong tinh thể có thành phần Methamphetamine còn lại sau giám định có dấu niêm phong số: 1069/PC54(MT), của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:  01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu xanh đã cũ có số Imei 358264/03/644856/1; 01 (một) điện thoại di động NOKIA mầu xanh đã cũ có số Imei 354185031313191 và số tiền 950.000 (chín trăm năm mươi nghìn) đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Thị Như Q số tiền 145.000 (Một trăm bốn mươi năm nghìn) đồng, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành khoản tiền phạt và tiền án phí mà bị cáo phải chịu.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Thị Như Q phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng, án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 30/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về