Bản án 15/2018/HS-ST ngày 14/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 14/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 3 năm 2018, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2018/ TLST-HS, ngày 09 tháng 02 năm 2018, đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Tuấn A, sinh năm: 1988 tại huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

Tên gọi khác: Không.

Nơi cư trú: Xóm T, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn K, và bà Dương Thị V; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08 tháng 11 năm 2017 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên- bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Tiến T, sinh năm 1987/ vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1966/ vắng mặt. Trú tại: Xóm T Mới, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

3. Anh Trần Văn L, sinh năm: 1980/ vắng mặt. Trú tại: Xóm T, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 30 phút ngày 08/11/2017, tổ công tác Công an huyện P phối hợp cùng Công an xã B đang làm nhiệm vụ tại khu vực Xóm T, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên thì nhận được tin báo của quần chúng nhân dân tại nhà ở của Dương Tuấn A, sinh năm: 1987, trú tại Xóm T, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên đang diễn ra hoạt động mua bán trái phép chất ma túy. Khi tổ công tác đến nhà Dương Tuấn A theo nguồn tin thì thấy có một số thanh niên ở trong nhà bỏ chạy thoát. Tổ công tác kịp thời giữ lại được hai nam thanh niên, gồm Dương Tuấn A (chủ nhà) và Nguyễn Tiến T, sinh năm 1987, trú tại Xóm T, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Thành khai nhận đến nhà Dương Tuấn A để mua ma túy về sử dụng cho bản thân, Thành đã đưa cho Dương Tuấn A số tiền 100.000 đồng để mua 01 gói ma túy nhưng chưa kịp nhận ma túy của Dương Tuấn A thì bị công an bắt quả tang. Dương Tuấn A đã tự giác giao nộp 01 gói chất bột dạng cục màu trắng được gói ngoài bằng giấy trắng – niêm phong ký hiệu A theo Dương Tuấn A khai đó là ma túy - Hêrôin của mình đang chuẩn bị bán cho Thành. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang niêm phong vật chứng theo quy định, đưa các đối tượng trên về trụ sở Công an huyện P để điều tra làm rõ.

Hồi 13 giờ 20 phút cùng ngày Công an huyện P đã tiến hành khám xét khẩn cấp đồ vật, chỗ ở của Dương Tuấn A, thu giữ 03 gói chất bột dạng cục màu trắng, trong đó: 01 gói được gói ngoài bằng giấy vở học sinh, 02 gói được gói ngoài bằng giấy trắng (Được niêm phong ký hiệu B) ở dưới chăn trải trên chiếu tại giường ngủ trong gian nhà bên trái theo hướng từ cửa vào và số tiền 200.000 đồng.

Cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P cùng phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành cân xác định trọng lượng 04 gói chất bột màu trắng thu giữ của Dương Tuấn A có tổng trọng lượng là 0,202 gam (không phẩy hai trăm linh hai gam). Trong đó: 01 gói chất bột dạng cục màu trắng do Dương Tuấn A tự giác giao nộp trong quá trình bắt quả tang có trọng lượng 0,026 gam, lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu A1; toàn bộ số chất bột màu trắng trong 03 gói nhỏ thu tại nhà Dương Tuấn A khi khám xét khẩn cấp có tổng trọng lượng 0,176 gam, lấy toàn bộ gửi giám định ký hiệu B1 gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên để giám định.

Tại bản kết luận giám định số 1144/KL-PC54 ngày 15/11/2017 của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất bột dạng cục màu trắng trong mẫu A1 thu giữ của Dương Tuấn A không xác định được là chất gì, trọng lượng (khối lượng) thu giữ là 0,026 gam; Chất bột dạng cục màu trắng trong mẫu B1 thu giữ của Dương Tuấn A là chất ma túy - loại Hêrôin, có trọng lượng (khối lượng) 0,176 gam. Hoàn lại 0,017 gam trong mẫu A1 còn lại sau giám định được niêm phong ký hiệu A1; Hoàn lại 0,145 gam trong mẫu B1 còn lại sau giám định được niêm phong ký hiệu B1.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Dương Tuấn A khai nhận: Do bản thân mắc nghiện chất ma túy nên vào khoảng 08 h 00 phút ngày 08/11/2017, Dương Tuấn A đi một mình lên bến xe khách Thái Nguyên và mua 01 gói ma túy Hêrôin của một người đàn ông khoảng hơn 50 tuổi không rõ tên, địa chỉ với giá 350.000 đồng với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Sau khi mua được ma túy Dương Tuấn A mang về nhà mở ra thì thấy bên trong có 03 gói ma túy nhỏ và 01 cục ma túy. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày khi Dương Tuấn A đang ngồi ở nhà uống nước cùng Nguyễn Văn T, sinh năm: 1966 và Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1988 cùng trú tại xã B, huyện P thì có Nguyễn Tiến T đến hỏi mua ma túy, Dương Tuấn A đồng ý bán, Thành đã đưa cho Dương Tuấn A số tiền 100.000 đồng để mua 01 gói ma túy nhưng sau khi nhận tiền chưa kịp đưa ma túy cho Thành thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Số ma túy bị thu giữ trong quá trình khám xét có trọng lượng 0,176 gam Dương Tuấn A mua về với mục đích để bán cho những người khác. Việc kết luận giám định đối với gói chất bột dạng cục màu trắng Dương Tuấn A bán cho Thành không phải là ma túy thì Dương Tuấn A khai nhận bản thân Dương Tuấn A nghĩ rằng đó là ma túy nên bán cho Nguyễn Tiến T để kiếm lời.

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã triệu tập Nguyễn Tiến T, Nguyễn Văn T đến làm việc, Nguyễn Tiến T khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 08/11/2017 đến nhà Dương Tuấn A hỏi mua ma túy, Nguyễn Tiến T đưa 100.000 đồng cho Dương Tuấn A để mua ma túy thì Dương Tuấn A nhận lời nhưng chưa kịp đưa ma túy thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ. Nguyễn Văn T khai nhận trưa ngày 08/11/2017, Nguyễn Văn T có đến nhà Dương Tuấn A chơi, tại thời điểm Dương Tuấn A bị bắt quả tang khi bán ma túy cho Nguyễn Tiến T do Nguyễn Văn T sợ nên đã bỏ chạy.

Tại phiên tòa bị cáo Dương Tuấn A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 09/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Dương Tuấn A ra trước TAND huyện P để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS. Kết thúc phần xét hỏi đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, kết luận hành vi của bị cáo Dương Tuấn A đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Dương Tuấn A phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Hình phạt chính: Áp dụng khoản 1 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Điều 38 BLSHS xử phạt bị cáo Dương Tuấn A từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 BLHS phạt bị cáo từ 5 đến 6 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sư; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy ký hiệu B1 và 01 phong bì niêm phong số 6087/C54(TT2); Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng bị cáo bán ma túy trái phép mà có; Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định. Tuyên bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi phạm tội của bị cáo:Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của Nguyễn Tiến T, lời khai của người làm chứng Nguyễn Văn T, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định và lời khai của những người tham gia tố tụng khác.

Như vậy có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ ngày 08/11/2017 khi bị cáo đang ngồi ở nhà uống nước cùng Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn Đ thì có Nguyễn Tiến T đến hỏi mua ma túy, bị cáo đã đồng ý bán ma túy cho Nguyễn Tiến T, Nguyễn Tiến T đã đưa cho bị cáo số tiền 100.000 đồng để mua 01 gói ma túy nhưng sau khi nhận tiền chưa kịp đưa ma túy cho Nguyễn Tiến T thì bị Công an bắt quả tang.

Hành vi nêu trên của bị cáo Dương Tuấn A đã phạm vào Tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sư năm 1999 và nay được quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018.

Nội dung Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”.

Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 251 BLHS viện dẫn ở trên.

[3]Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo Dương Tuấn A là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng; xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về ma túy, làm tệ nạn ma túy diễn biến ngày càng phức tạp khiến dư luận quần chúng bất bình. Vì ma túy là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm, con đường lây nhiễm nhiều bệnh nan y, là nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình. Mặt khác ma túy còn hủy hoại sức khỏe, kinh tế của chính người nghiện. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục thành người lương thiện, đồng thời để răn đe, phòng ngừa chung đối với mọi người.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó trong lượng hình, HĐXX đã có xem xét giảm nhẹ phần nào mức hình phạt đối với bị cáo.

[4]Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử thấy bị cáo bán ma túy cho người khác nhằm mục đích thu lời bất chính nên cần phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phạt tiền để sung quỹ Nhà nước.

[5]Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong chất ma túy ký hiệu B1 và 01 bì thư niêm phong số 6087/C54(TT2); Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng bị cáo bán ma túy trái phép mà có; Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6]Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt chính là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[7]Về nguồn gốc ma túy (Hêrôin) bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để mở rộng điều tra vụ án.

Đối với Nguyễn Tiến T đã có hành vi mua ma túy của Dương Tuấn A để sử dụng cho bản thân, Công an huyện P đã xử lý hành chính theo quy định của pháp luật.

[8]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Dương Tuấn A phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” .

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Dương Tuấn A 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/11/2017.

Áp dụng Điều 329 BLTTHS ra quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án.

2. Căn cứ vào khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự:

- Phạt bổ sung bị cáo Dương Tuấn A 5.000.000đ (Năm triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

 3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong chất ma túy ký hiệu B1 và 01 bì thư niêm phong số 6087/C54(TT2).

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000 đồng bị cáo bán ma túy trái phép mà có.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/3/ 2018 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra của Công an huyện P và Chi cục Thi hành án dân sự huyện P và ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số 31 ngày 07/3/ 2018 giữa đơn vị trả tiền Công an huyện P, tỉnh Thái Nguyên và đơn vị nhận tiền Chi cục Thi hành án Dân sự huyện P, tỉnh Thái Nguyên).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Dương Tuấn A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 14/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về