Bản án 15/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh  Vĩnh  Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án  hình  sự  thụ  lý  số: 08/2018/TLST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Đào Đình H, sinh năm 1996; sinh trú quán: Thôn A, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Anh V (đã chết) và bà Hà Thị Kh; chưa có vợ con; tiền án: 01. Bản án số: 78/2013/HSST ngày 22/11/2013 Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo xử phạt 05 (năm) năm tù về tội Cướp tài sản, tiền sự: 01. Quyết định số: 69/QĐ-UBND ngày 15/10/2017 áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng, ngày 07/11/2017 Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T ra quyết định tạm đình chỉ thi hành Quyết định số: 69/QĐ-UBND ngày 15/10/2017; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/11/2017, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 02 tháng 11 năm 2017, Đào Đình H đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy, H điện thoại của mình (Nokia màu xanh đã cũ số 01634237623) gọi cho người đàn ông (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) tên là D ở xã L, huyện L (số 0927203621) hỏi mua 600.000đ ma túy, D đồng ý và hẹn gặp ở cổng nhà H. Khoảng 17 giờ, D đi đến cổng nhà H, H đưa cho D 600.000đ, D đưa cho H 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba màu vàng bên trong có 05 gói ma túy được bọc bên ngoài bằng giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột cục màu trắng. Sau khi mua được ma túy, H vào nhà lấy 03 gói ma túy giấu ở túi quần phía sau bên phải đang mặc để sử dụng dần, còn 02 gói ma túy H lấy ra để sử dụng thì bị Công an huyện Tam Đảo phát hiện bắt quả tang, do hoảng sợ H cho 02 gói ma túy định sử dụng vào miệng nhai.

Vật chứng thu giữ gồm: Thu giữ trong túi quần bên phải của H 03 gói nhỏ được bọc bên ngoài bằng giấy màu trắng bên trong chứa ma túy niêm phong ký hiệu M1, 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đã cũ bên trong có 01 thẻ sim số 01634237623.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đảo tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Đình H, thu giữ: 02 túi ni lon màu trắng bên trong túi còn bám dính các tinh thể nhỏ màu trắng niêm phong ký hiệu M2, 01 bơm kim tiêm, 02 lọ nước cất (trong đó có 01 lọ đã sử dụng) là dụng cụ H dùng để sử dụng ma túy.

Tại Kết luận giám định số: 1318/KLGĐ ngày 05/11/2017 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

- Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng (trọng lượng) là 0,3359g (Không phảy ba ba năm chín gam, không kể bao bì) loại Heroine.

- Tinh thể dạng đá màu trắng bám dính trong 02 (hai) túi ni lon của mẫu ký hiệu M2 gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

- Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định gồm: 0,1490g của mẫu ký hiệu M1, 02 (hai) túi ni lon của mẫu ký hiệu M2 và toàn bộ bao gói.

Quá trình điều tra xác định: Về nguồn gốc ma túy Đào Đình H khai nhận mua của người đàn ông tên D (không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) ở xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; số điện thoại 0927203621 là của chị Nguyễn Thị T, số giấy chứng minh nhân dân 031197850 nhưng qua điều tra xác định số giấy chứng minh nhân dân 031197850 là của chị Vũ Thị Thùy D, sinh năm 1984 ở phường A, quận D, thành phố H, chị D không sử dụng số điện thoại trên và không quen biết D, H, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh.

Tại Bản Cáo trạng số: 15/CT-VKSTĐ ngày 10/02/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Đào Đình H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, phạt Đào Đình H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù; đề nghị xử lý vật chứng và tính án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo Đào Đình H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa Đào Đình H thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, thể hiện như sau: Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 02/11/2017, tại nhà ở của Đào Đình H ở Thôn A, xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, H đã cất giấu trong túi quần bên phải đang mặc 03 gói ma túy (0,3359g Heroine) thì bị bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tuy nhiên, căn cứ quy định tại điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017, khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 theo nguyên tắc có lợi nên cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để truy tố, xét xử đối với bị cáo. Do đó, Bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:

“1. Người nào tàng trữ… trái phép chất ma túy…., thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

... c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.”.

[4] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Ma tuý là một tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người, sói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện ma túy, đã có tiền án, tiền sự nên cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[7] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy mẫu vật sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại, gồm: M1 = 0,1490g, M2 = 0,0000g và toàn bộ bao gói, 01 bơm kim tiêm, 02 lọ nước cất và 01 thẻ sim số 01634237623 do không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu để phát mại sung quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen đã cũ.

[9] Về án phí: Bị cáo Đào Đình H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đào Đình H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Đào Đình H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 02/11/2017).

3. Áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại, gồm: M1 = 0,1490g, M2 = 0,0000g cùng toàn bộ bao gói, 01 bơm kim tiêm, 02 lọ nước cất và 01 thẻ sim số 01634237623.

Tịch thu để phát mại sung quỹ Nhà nước đối với 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen đã cũ.

(Các vật chứng trên có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/02/2018).

4. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc Đào Đình H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về