Bản án 15/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 09/02/2018 TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2018/TLST-HS ngày 05-01-2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/HSST-QĐ ngày 22-01-2018 đối với bị cáo:

Viên Phước T (có tên gọi khác là S), sinh năm 1976; Nơi cư trú: Số xxx đường NH, Khóm X, Phường Z, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Hoa; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Viên Tân D và bà Thạch N; Có 01 người con; Tiền án: Không; Tiền sự: 02 lần, lần thứ nhất vào ngày 21-8-2017 bị Trưởng công an Phường 6, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 001262/QĐ-XPHC với số tiền là 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, đến nay bị cáo đã chấp hành xong quyết định nhưng chưa được coi là chưa bị xử lý hành chính; lần thứ hai vào ngày 30-8-2017 bị Trưởng Công an xã Viên An, huyện TĐ, tỉnh Sóc Trăng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0000204/QĐ-XPHC với số tiền là 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản đến nay bị cáo chưa chấp hành quyết định; Về nhân thân: bị cáo có 01 lần tiền án, vào ngày 29-10-2007 bị Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2007/HSST, đến ngày 05-02-2008 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù đến lần phạm tội này bị cáo đã được xóa án tích; Bị bắt, tạm giam từ ngày 06-12- 2017; (có mặt)

- Người bị hại: Công ty TNHH TM XD PNT

Người đại diện theo pháp luật của bị hại: Ông Vương Hồng T1, sinh năm 1969 – Chủ tịch kiêm Giám đốc của Công ty TNHH TM XD PNT; Nơi cư trú: Số xx/x đường LHP, Khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; (vắng mặt)

- Người làm chứng: Bà Võ Thị Huyền Tr, sinh năm 1983; Nơi cư trú: Số xx/xx đường LHP, Khóm 4, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ, ngày 24-8-2017, Viên Phước T hỏi mượn xe mô tô biển số 83P2-262.86 của cậu ruột là Thạch Khe Ma R để đi tìm tài sản của người khác lấy trộm, nhưng T không nói cho anh R biết, khi T điều khiển xe đi trên đường LHP đến trước Cty TNHH PNT tại số xx/x đường LHP, Khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng do anh Vương Hồng T1 làm chủ, lúc này T nảy sinh ý định vào Công ty của anh T1 để lấy trộm tài sản, T dừng xe đi vào bên trong Công ty gặp chị Võ Thị Huyền Tr là nhân viên của Công ty, T hỏi mua lõi lọc nước nhãn hiệu Kangarro, chị Tr nói không có hiệu như T hỏi mà có hiệu khác có công dụng như nhau và tư vấn cho T, T kêu chị Tr lấy lõi lọc nước ra cho xem, xem xong, T đồng ý mua và yêu cầu chị Tr bỏ 03 lõi lọc nước vào bọc, chị Tr bỏ 03 lõi lọc nước vào bọc đưa cho T, thì T diện lý do về lấp vào không vừa, để T về nhà chở máy lọc nước đến lắp vừa sẽ mua, T đưa bọc đựng 03 lõi lọc nước lại cho chị Tr, chị Tr lấy 03 lõi lọc nước đi vào trong quầy, lợi dụng lúc chị Tr đi vào trong không để ý T lén lút lấy 01 cái Moter bơm nước nhãn hiệu CM2-60 để trưng bán cho khách hàng. Sau khi lấy được Moter bơm nước, T để lên xe chạy đến khu vực đài Viba Sóc Trăng, bán cho một người đi đường không rõ tên và địa chỉ được 700.000 đồng, số tiền có được T mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết. Còn chị Tr phát hiện mất Moter bơm nước thì báo cho anh T1 biết và đến Công an phường 3, thành phố S trình báo.

Tại Kết luận Định giá Tài sản số 145/KL.ĐGTS, ngày 08-10-2017 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thành phố S kết luận: 01 moter CM2-60 (ASD12-13/2.2Kw) dùng trong bơm lọc nước tinh khiết, đã qua sử dụng, tỷ lệ sử dụng còn lại 100%, với số tiền là 01 x 2.262.000đ x 100% = 2.262.000đ.

Tại Cáo trạng số 03/QĐ.KSĐT ngày 05-01-2018 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố S đã truy tố bị cáo Viên Phước T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Viên Phước T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Viên Phước T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình Điều tra, người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 2.800.000đ. Nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày02-02-2018 của người đại diện theo pháp luật cho người bị hại ông Vương Hồng T1 không yêu  cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập xử lý.

Tại phiên tòa, ông Vương Hồng T1 là người đại diện theo pháp luật của người bị hại vắng mặt, nên Hội đồng xét xem xét lời khai của ông T1 tại các biên bản ghi lời khai, thì ông T1 thừa nhận trong quá trình Điều tra người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 2.800.000đ, nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 02-02-2018 của người đại diện theo pháp luật cho người bị hại ông Vương Hồng T1 không yêu cầu bị cáo bồi thường. Về hình phạt yêu cầu xử phạt bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại phiên toà, bị cáo Viên Phước T thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, ông Vương Hồng T1 là người đại diện theo pháp luật của người bị hại và bà Võ Thị Huyền Tr là người làm chứng vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy, trong quá trình điều tra thì những người nêu trên đã có lời khai rõ ràng về các tình tiết của vụ án và việc vắng mặt của những người trên cũng không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với những người nêu trên.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Viên Phước T (S) đã khai nhận:

Do không có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng nên vào khoảng 14 giờ sáng ngày 24-8-2017, bị cáo đi đến Cty TNHH PNT ở số xx/x đường LHP, Khóm 6, Phường 3, thành phố S, giả vờ mua lõi lọc nước rồi lấy trộm 01 cái moter bom nước đem đến khu vực đài Viba Sóc Trăng bán cho một người đi đường, nhưng không rõ họ tên và nơi cư trú với giá là 700.000đ, số tiền có được bị cáo mua ma túy sử dụng và tiêu xài cá nhân hết.

[4] Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Viên Phước T về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét hành vi của bị cáo Viên Phước T đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của nhân viên Cty TNHH PNT, bị cáo đã lén lút chiếm đoạt được 01 moter CM2-60, qua định giá tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt có giá trị là 2.262.000đ. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Viên Phước T phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình Điều tra, Cty TNHH PNT là người bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 2.800.000đ. Nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt ngày 02-02-2018 của người đại diện theo pháp luật cho người bị hại ông Vương Hồng T1 không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức khởi điểm như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 138; điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tuyên bố: Bị cáo Viên Phước T (S) phạm tội “Trộm cắp tài sản”

1. Xử phạt bị cáo Viên Phước T (S) 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06-12-2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo phải nộp là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 09/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về