Bản án 15/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 15/2018/HS-ST NGÀY 05/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 05/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 01 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST-HS ngày 20-3-2018, đối với bị cáo:

1. Lê Văn N (tên gọi khác: Ngọc S), sinh năm: 1992 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn 9, xã Kiến T, huyện Đắk R, tỉnh Đăk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: Kinh; trình độ văn hóa: 6/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Â, sinh năm: 1962 bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1964; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền sự: Ngày 26/10/2011 bị Toà án nhân dân huyện Tuy Đức xử phạt 03 năm tù về tội Cố ý gây thương tích tại Bản án số 46/2011/HSST, ngày 16/11/2011 bị Toà án nhân dân huyện Đắk R’lấp xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 50/2011/HSST. Đến ngày 28/3/2012 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/7/2013, bị Toà án nhân dân huyện Đắk R’lấp xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 43/2013/HSST. Tổng hợp hình phạt chung với Bản án số 46/2011/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 năm tù. Đến ngày 07/01/2017 chấp hành xong hình phạt tù; bị bắt tạm giam từ ngày 23/10/2017 - Có mặt.

2. Dương Văn Ng, sinh năm: 1994, tại Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT: Xóm 5, xã Hồng L, huyện Lộc H, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn S, sinh năm: 1964 bà: Phan Thị H, sinh năm: 1972; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 16/10/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù Trộm cắp tài sản tại Bản án số 108/2015/HSST. Đến ngày 04/3/2016 chấp hành xong hình phạt tù, ngày 24/10/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bản án số 326/2016/HSST. Đến ngày 03/9/2017 chấp hành xong hình phạt tù; bị bắt tạm giam từ ngày 23/10/2017 - có mặt.

- Những người bị hại:

Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1989 – có đơn đề nghị xét vắng mặt. Địa chỉ: Tổ d, thị trấn Kiến Đ, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông.

Anh Đặng Xuân L , sinh năm 1996 – có đơn đề nghị xét vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 6, xã Hưng B, huyện Đăk R, tỉnh Đăk Nông.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị L, sinh năm 1960 – có đơn đề nghị xét vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ d, thị trấn Kiến Đ, huyện Đắk R, tỉnh Đắk Nông.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn H , sinh năm 1988 – vắng mặt

Địa chỉ: Thôn 2, xã Quảng T, huyện Đăk R, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau

Khoảng 15h00 ngày 22/10/2017, Lê Viết H gọi điện thoại cho Dương Văn Ng rủ N lên Đắk Nông để trộm cắp xe mô tô thì Ngọc đồng ý. Sau đó, N đón xe đò đi từ thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương về Đắk Nông. Đến khoảng 21h00 cùng ngày, H tiếp tục gọi điện thoại cho Lê Văn N để gặp ở thị trấn Kiến Đức do trước đó H và Ngọc đã có hẹn trước với nhau. Lúc này, Lê Văn N đang ở thôn 8, xã Quảng T, huyện Đắk R nên N hẹn H ở đây. Đợi một lúc thì Lê Viết H và T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đi 02 xe mô tô đến, một xe hiệu Yamaha Exciter mang biển kiểm soát của Tp. Hồ Chí Minh (biển số 59) và một xe hiệu Yamaha Exciter mang biển kiểm soát của Gia Lai (biển số 81), còn các số sau không rõ. Lê Văn N gặp H và T được một lúc thì Dương Văn Ng cũng đi xe đò đến ngã 3 thị trấn Kiến Đức nên cả nhóm lên đón Dương Văn Ng rồi cùng đi ăn tối. Trong lúc ăn tối, Thắng rủ Lê Văn N và Dương Văn Ng đi trộm cắp xe mô tô thì Lê Văn N và Dương Văn Ng đồng ý. Sau đó, cả nhóm thống nhất như sau: H và Th đi chung một xe mô tô rồi tìm xe nào để sở hở thì bẻ khóa lấy trộm, còn Lê Văn N và Dương Văn Ng đi chung một xe mô tô và có nhiệm vụ đưa xe mô tô do Th và H trộm cắp được về Bình Dương tiêu thụ. Ngoài ra thì Lê Văn N còn có nhiệm vụ dẫn đường vì Ng là người địa phương. Thống nhất xong thì cả nhóm lên 02 xe mô tô của H và Th và bắt đầu đi tìm xe mô tô để sơ hở trên địa bàn huyện Đắk R’lấp. Khi đến trước quán internet của anh Nguyễn Đình H thuộc TDP, thị trấn Kiến Đ, huyện Đắk R thì thấy chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter BKS: 48H1-022.11 của chị Lê Thị L dựng trước hiên nên Th dừng xe lại rồi H đi lại gần chiếc xe này. Quan sát xung quanh thấy không có người trông coi, H dùng vam đã chuẩn sẵn bẻ khóa rồi nổ máy chạy về hướng Tp. Hồ Chí Minh. Đi được khoảng 300m thì H bàn giao xe mới lấy trộm được cho Dương Văn Ng.

Sau khi nhận xe, Dương Văn Ng điều khiển chiếc xe này về gửi ở quán nhậu HT của anh Nguyễn Văn H tại thôn 2, xã Quảng T rồi quay lại cây xăng 48 thuộc thôn 3 xã Quảng T để gặp H và Th. Tại đây, H hỏi Lê Văn N còn chỗ nào để trộm cắp xe nữa không thì N trả lời là ở xã Đắk S. Nghe vậy thì cả nhóm đồng ý rồi Lê Văn N chở Dương Văn Ng đi trước dẫn đường đi vào trung tâm xã Đắk S. Bằng thủ đoạn tượng tự, cả nhóm đã chiếm đoạt được chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter BKS: 48H1-127.31 của anh Đặng Xuân L, cả nhóm quay lại quán nhậu HT rồi Th nói Lê Văn N và Dương Văn Ng điều khiển 02 xe mô tô trộm cắp được đến khu vực cầu vượt Sóng Thần ở thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Thắng sẽ cho người ra lấy, còn Th và H sẽ đi sau. Đến khoảng 4h00 sáng ngày 23/10/2017, Lê Văn N và Dương Văn Ng đến thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước thì bị Công an thị xã Đồng Xoài phát hiện nên đã tạm giữ người và phương tiện và bàn giao cho cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’lấp.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 26/10/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk R’lấp kết luận: Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter BKS: 48H1-022.11 có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 41.400.000 đồng và chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter BKS: 48H1-127.31 có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 34.850.000 đồng. Tổng giá trị tài sản: 76.250.000 đồng.

Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’lấp đã thu giữ các vật chứng gồm:

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-022.11 cùng giấy đăng ký xe và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-127.31.

- 01 điện thoại di động Iphone4, model A1332.

- 01 điện thoại di động Nokia 110i.

Đối với chiếc mô tô hiệu Yamaha Exciter, BKS: 48H1-022.11 cùng giấy đăng ký xe và bảo hiểm trách nhiệm dân sự là tài sản hợp pháp của chị Lê Thị L và chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, BKS: 48H1-127.31 là tài sản hợp pháp của anh Đặng Xuân L nên cơ quan CSĐT đã ra quyết định xử lý vật chứng số 17 ngày 07/11/2017, trả lại cho chủ sở hữu.

Đối với chiếc xe hiệu Yamaha Exciter mang biển kiểm soát của thành phố Hồ Chí Minh (biển số 59) và chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter mang biển kiểm soát của Gia Lai (biển số 81), còn các số sau không rõ do H và Th sử dụng làm phương tiện phạm tội, hiện chưa xác định được H và Th ở đâu nên không thu giữ được.

Cáo trạng số: 08/2018/Ctr- VKSND ngày 15/01/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp truy tố các bị cáo Dương Văn Ng và Lê Văn N về tội:“Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c, e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Kết quả xét hỏi tại phiên toà các bị cáo Dương Văn Ng và Lê Văn N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm c, e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng, không oan và không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Kết quả tranh luận tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và khẳng định quyết định truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Sau khi xem xét, đánh giá các chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật hình sự năm 1999 xử phạt:

Bị cáo Dương Văn Ng từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng đến 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam.

Bị cáo Lê Văn N từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng đến 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại tài sản, chị L, anh Th và anh L không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm.

Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu, bán sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Iphone4, model A1332 và 01 điện thoại di động Nokia 110i là công cụ các bị can sử dụng vào việc phạm tội.

Đối với đối tượng tên Lê Viết H và Th hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’lấp tiếp tục xác minh, làm rõ và khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến kiểm sát viên và bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà là phù hợp với các lời khai của người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các chứng cứ, tài liệu được thu thập lưu tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Các bị cáo Dương Văn Ng và Lê Văn N lợi dụng sự sơ hở của người quản lý tài sản đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản, cụ thể: khoảng 21 giờ 00 ngày 22-10-2017, các bị cáo Lê Văn N, Dương Văn Ng, Lê Viết H và đối tượng tên Th (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đã chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-022.11 của anh Nguyễn Văn T, tại tổ dân phố 1, thị trấn Kiến Đ, huyện Đắk R, trị giá là 41.400.000 đồng và đến khoảng 23h00 cùng ngày các bị cáo Lê Văn N, Dương Văn Ng, Lê Viết H và đối tượng tên Th lại tiếp tục chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-127.31, trị giá 34.850.000 đồng của anh Đặng Xuân L tại thôn 6, xã Hưng B, huyện Đắk R. Tổng trị giá tài sản các bị cáo chiếm đoạt là 76.250.000đồng. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của các bị cáo Lê Văn N và Dương Văn Ng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.[2]. Xét hành vi của cac bị cáo gây ra là nghiêm trọng, cac bị cáo là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển được mọi hành vi của mình, pháp luật buộc bị cáo phải biết quyền sở hữu hợp pháp về tài sản luôn được bảo vệ. Nhưng với ý thức coi thường pháp luật mà các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn T và anh Đặng Xuân L, mặt khác còn ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội.

[3]. Tình tiết định khung hình phạt: Trong vụ án này các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm, nhưng không có sự câu kết chặt chẽ; bị cáo Lê Văn N có 03 tiền án về các tội trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích; bị cáo Dương Văn Ng có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản; các bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích; tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị trên 50.000.000đồng. Đây là những tình tiết định khung hình phạt là phạm tội thuộc trường tái phạm nguy hiểm và giá trị tài sản bị chiếm đoạt trên 50.000.000đồng được quy định tại điểm c, e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều có hai lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Đây là tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 1999.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[6]. Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt các bị cáo mưc hinh phat nghiêm tương xứng với tính chất vai trò phạm tội của từng bị cáo gây ra. Đồng thơi, cách ly cac bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định thì mới bảo đảm được mục đích của hình phạt.

[7]. Đối với đối tượng tên Lê Viết H và Th hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk R’lấp tiếp tục xác minh, làm rõ, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

 [8]. Đối với anh Nguyễn Văn H là người cho các bị cáo gửi xe, quá trình xác minh anh H không có mặt tại địa phương và các bị cáo khai là anh H không biết tài sản trộm cắp được nên không có căn cứ xử lý.

 [9]. Về trách nhiện dân sự: Anh Nguyễn Văn T, anh Đặng Xuân L và chị Lê Thị L sau khi nhận lại tài sản đều không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.

[10]. Vật chứng vụ án: Xét 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-022.11, giấy đăng ký xe và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn T và 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-127.31 là tài sản hợp pháp của anh Đặng Xuân L nên ngày 07/11/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả lại cho các chủ sở hữu là phù hợp cần chấp nhận. Xét 01 điện thoại di động Iphone4, model A1332 thu giữ của Lê Văn N và 01 điện thoại di động Nokia 110i thu giữ của Dương Văn Ng là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, bán sung công quỹ nhà nước.

[11]. Xét tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là khách quan và đúng pháp luật.

[12]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo Lê Văn N và Dương Văn Ng từ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng đến 05 (năm) năm tù là cao so với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo, tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản đã được thu hồi trả lại cho những người bị hại và người bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm. Do đó Hội đồng xét xử, xử phạt các bị cáo mức hình phạt thấp hơn Viện kiểm sát đề nghị thì mới tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo gây ra; trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hai lần nhưng Viện kiểm sát không đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo. Các đề nghị khác của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[13]. Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c, điểm e khoản 2 Điều 138, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luât hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Dương Văn Ng 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 23-10-2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn N 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 23-10-2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Văn T, anh Đặng Xuân L và chị Lê Thị L sau khi nhận lại tài sản đều không có yêu cầu bồi thường thêm nên không đề cập giải quyết.

3. Vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 41 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận ngày 07/11/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-022.11, giấy đăng ký xe và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe cho anh Nguyễn Văn T và trả 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS: 48H1-127.31 cho anh Đặng Xuân L.

Tịch thu, bán sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại di động Iphone4, model A1332 và 01 điện thoại di động Nokia 110i.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Dương Văn Ng và Lê Văn N mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; những người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HS-ST ngày 05/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:15/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về