Bản án 15/2018/HSST ngày 01/11/2018 về tội mua bán trái phép các chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 15/2018/HSST NGÀY 01/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CÁC CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 26/10/2018 đến ngày 01/11/2018, tại Trung tâm văn hóa học tập cộng đồng thị trấn Cửa Tùng, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 14/2018/HSST ngày 17/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2018/QĐXXST/HS ngày 15/10/2018 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn C (Tộ), sinh ngày: 07/3/1990, tại Vĩnh Linh, Quảng Trị;

Nơi cư trú: Đội 4, thôn Thủy B H, xã Vĩnh Th, V L, Quảng Trị; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H, sinh năm 1945 và bà Cao Thị D, sinh năm 1952; vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 30/10/2010, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 23 tháng 14 ngày về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/5/2018 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Linh. Có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Văn T (Trâu), sinh ngày 19/02/1997, tại: Vĩnh Linh, Quảng Trị.

Nơi cư trú: Đội 3, thôn Lê Xá, xã V S, huyện V L, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông Trần Văn X, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án 38/2013/ HSST ngày 21/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Linh xử phạt Trần Văn Tiến 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/5/2018 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Linh. Có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Cao Tất Đ, sinh năm 1992.

Trú tại: Thôn Thủy B H, xã V Th, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị, vắng mặt

2. Anh Phan Văn N, sinh năm 1985.

Trú tại: Đội 4, thôn Thủy B H, xã Vĩnh Th, V L, Quảng Trị, vắng mặt.

3. Chị Mạc Thị Ph, sinh năm 1991.

Trú tại: Thôn Thuận Lập, xã Châu Hạnh, huyện Q Ch, Ng A, vắng mặt

4. Ông Trần Văn X, sinh năm 1966.

Trú tại: Đội 3, Thôn Lê Xá, xã V S, huyện V L, Quảng Trị, có mặt.

5. Chị Trần Thị Ph, sinh năm 1977.

Trú tại: Thôn Thủy Ba Hạ, xã V T, huyện V L, Quảng Trị, có mặt.

- Người làm chứng:

Anh Nguyễn Khánh T, sinh 1985 Trú tại: Khóm 5, thị trấn Hồ Xá, V L, Quảng Trị, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng đầu tháng 4 năm 2018, Trần Văn C và Trần Văn T là những người nghiện ma túy có gặp nhau trao đổi: C góp 1.000.000 đồng, Tiến 600.000 đồng vào Đông Hà mua ma túy đem ra địa bàn huyện V L bán cho các đối tượng nghiện lấy lại vốn, còn lại sử dụng chung. Ngày 02/5/2018, C đi xe mô tô biển kiểm soát 74L1-152.93 của chị Trần Thị Ph chở T đi vào khu vực Chợ phường 5, thành phố Đ H, tỉnh Q Tr gặp một người tên thường gọi là Chuột mua 20 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh được cho là ma túy với giá 1.400.000đồng.

Vào khoảng 02 giờ ngày 03/5/2018, C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 74L1- 152.93 chở Tiến đến ngã ba Châu Thị thuộc thôn L C, xã V L để bán 03 viên ma túy cho đối tượng đã hẹn trước đó thì bị tổ công tác Công an huyện Vĩnh Linh phát hiện bắt giữ, thu giữ 02 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh C và T khai là ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 293 ngày 04/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị: 02 viên nén màu hồng trong phong bì niêm phong ký hiệu MT gữi giám định có khối lượng 0,2149g là methamphetamine. 01 viên ném màu xanh trong phong bì niêm phong ký hiệu MT gửi đến giám định có khối lượng 0,1015g là methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Trần Văn T còn khai nhận vào khoảng 14 giờ ngày 01/5/2018, T nhận được điện thoại của Mạc Thị Ph; tên gọi khác là Mèo nói cần mua 06 viên ma túy nhưng chưa có tiền trả, T đồng ý. T nói với C biết việc Ph hỏi mua ma túy. C điều khiển xe mô tô 74L1-152.93 chở T đi về thị trần Cửa Tùng, huyện V L, tỉnh Quảng Trị gặp, bán cho Mạc Thị Ph tại quán chè ở cổng Chợ Cửa Tùng 06 viên màu hồng là ma túy với giá 600.000đồng, Ph chưa trả tiền. Đến chiều ngày 02/5/2018, T nói với C là Mạc Thị Ph hẹn về Cửa Tùng để trả tiền và nếu có được bán nợ mấy viên, nên khoảng 17 giờ cùng ngày T đi xe ô tô biển kiểm sát 74A-03452 của ông Trần Văn X chở C đi về nhà nghỉ Hà Nam ở thị trấn Cửa Tùng, huyện V L, C đi bộ vào phía bên phải nhà nghỉ Hà Nam thấy Ph đang đứng ở ban công ném xuống cho C 600.000 đồng (04 tờ mệnh giá 100.000 đồng và 04 tờ mệnh giá 50.000 đồng) trả nợ số tiền mua ma túy vào ngày 01/5/2018. C lấy 09 viên nén màu hồng được cho là ma túy bán với giá 900.000 đồng đã gói sẵn trong túi nilon màu xanh bỏ vào bao thuốc là ngựa trắng rồi đặt xuống cạnh tường nhà nghỉ rồi đi ra chổ T đang đợi, nhắn tin cho Ph biết vị trí để ma túy. Ph đang còn nợ chưa trả số tiền này. Số ma túy trên Ph đã sử dụng hết.

Ngoài ra phía bị cáo C còn khai nhận là vào khoảng 19 giờ ngày 02/5/2018, C đi xe mô tô 74L1-152.93 chở T đến nhà anh Trần Văn Th ở khóm 4, thị trấn H X, trên đường đi khi qua chợ Tiên Mỹ, xã V L, huyện Vĩnh Linh, cả hai gặp Cao Tất Đ, ở Thủy Ba Hạ, xã V Th, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Đ hỏi có ma túy không? Để cho tau mấy viên? Công lấy ra 03 viên nén màu hồng được cho là ma túy bán cho Đ lấy 200.000 đồng, số ma túy này Đ đã sử dụng hết. Đồng thời vào khoảng 20 giờ ngày 02/5/2018 C nhận được điện thoại của Phan Văn N, sinh năm 1985 ở Thủy Ba Hạ, xã V Th, huyện Vĩnh Linh, hỏi mua 02 viên ma túy. C đồng ý, hẹn địa điểm. C đi xe mô tô biển kiểm soát 74L1-152.93 gặp N ở khu vực mương thủy lợi gần Cây xăng (Cũ) thuộc thôn Tiên Mỹ, xã V L, huyện Vĩnh Linh lấy 02 viên là ma túy bán cho anh Phan Văn N với giá 200.000đồng. Số ma túy này N đã sử dụng hết.

Như vậy, ngoài lần bị bắt, thu giữ 03 viên, Cô và T đã bán 20 viên, sử dụng hết 04 viên.

Quá trình điều tra thu giữ 02 viên nén màu hồng; 01 viên nén màu xanh đã giám định hết; 01 xe mô tô biển kiểm biển kiểm soát 74L1-152.93; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus, sim số 0942.674.777; 01 điện thoại Nokia 1202, gắn sim 0967.272.010; 01 điện thoại di động hiệu Sam sung GalaxyJ7 gắn 02 sim 0943.556.345; 0167.497.8004. Vật chứng có đặc điểm như biên bản thu giữ chuyển bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Linh.Ngoài ra còn thu giữ ở Trần Văn C số tiền 1.000.000đồng, hiện đang bảo quản tại kho bạc Nhà nước huyện Vĩnh Linh.

Tại Cáo trạng số 15/CT-VKS – HS, ngày 17/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh truy tố Trần Văn C, Trần Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý ” theo điểm b, c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà: Các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung tại Cáo trạng đã nêu và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Chủ tọa phiên tòa đã công bố các bản ghi lời khai của chị Mạc Thị Ph, anh Cao Tất Đ, anh Phan Văn N, anh Nguyễn Khánh T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 BLHS, đồng thời đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù; bị cáo Trần Văn T từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và đề nghị tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus và 01 điện thoại Nokia 1202 của bị cáo C. 01 điện thoại di động hiệu Sam sung GalaxyJ7 của bị cáo T. Đối với 01 Sim số 0942.674.777; 01 sim số 0967.272.010 của bị cáo C. 01 sim số 0943.556.345; 01 sim số 0167.497.8004 của bị cáo T không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Tịch thu sung công quỹ số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo C do bán ma túy mà có, hiện đang bảo quản tại kho bạc Nhà nước huyện Vĩnh Linh. Truy thu của Mạc Thị Ph 900.000 đồng đây là khoản tiền thu lợi bất chính cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo Trần Văn C, Trần Văn T không tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Linh.

Các bị cáo Trần Văn C, Trần Văn T nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo để bị cáo sớm trở về lao động sản xuất và làm người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Xét thấy trong quá trình điều tra đã có đầy đủ lời khai của những người này trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tiến hành xét xử vắng mặt.

[2] Tại phiên toà các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người liên quan, các tài liệu khác Cơ quan điều tra đã thu thập, đủ cơ sở kết luận:

Ngày 02/5/2018, các bị cáo Trần Văn C, Trần Văn T, đến khu vực Chợ phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị mua của một người tên Chuột, không rõ địa chỉ 20 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh với giá 1.400.000 đồng. Các bị cáo bán cho chị Mạc Thị Ph 09 viên màu hồng với giá 900.000 đồng; bán cho anh Cao Tất Đ 03 viên nén màu hồng lấy 200.000 đồng; bán cho anh Phan Văn N 02 viên màu hồng với giá 200.000 đồng.; Vào khoảng 02 giờ ngày 03/5/2018, C và T đến ngã ba Châu Thị thuộc thôn L C, xã Vĩnh Lâm để bán 03 viên ma túy cho đối tượng đã hẹn trước thì bị tổ công tác Công an huyện Vĩnh Linh phát hiện bắt giữ, thu giữ 02 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh. Trước đó vào khoảng 14 giờ ngày 01/5/2018, T và C bán cho Mạc Thị Ph 06 viên màu hồng là ma túy với giá 600.000đồng.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT: 67 Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Vì vậy hành vi mua bán 0,3164g chất Methamphetamine của các bị cáo C, T, đã cấu thành tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vinh Linh truy tố các bị cáo với các tình tiết định khung tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên và phạm tội đối với 02 người trở lên, theo quy định tại các điểm b, c, khoản 2 Điều 251 BLHS là đúng người, đúng tội.

[3] Trong vụ án có đồng phạm nhưng chỉ ở mức độ giản đơn. Tuy vậy cần thiết đánh giá tính chất, mức độ, vai trò để phân hóa trách nhiệm nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.

Trần Văn C là người khởi xướng việc mua ma túy để bán lại, đồng thời là người thực hành việc mua bán nên phải chịu hình phạt nặng hơn so với Trần Văn T chỉ là người thực hành. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những qui định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an trên địa bàn địa phương. Các bị cáo biết tác hại của ma túy, việc mua bán bị nghiêm cấm song để có tiền phục vụ cho việc nghiện hút của bản thân, bị cáo đã mua ma túy về sử dụng và bán lại kiếm lời. Vì vậy cần xử phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục các bị cáo từ bỏ ma túy theo hướng cách ly ra khỏi đời sống xã hội đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; các bị cáo tự thú các hành vi phạm tội của mình. Bố bị cáo C là thương binh hạng 4/4, được nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 3, đây là các tình tiết giảm nhẹ theo điểm r, s khoản 1, 2 Điều 51 BLHS 2015, được Hội đồng xét xử áp dụng giảm nhẹ hình phạt khi quyết định hình phạt.

[4] Về hình phạt: Căn cứ vào tình chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử các bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian cũng đủ tác dụng giáo dục cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Đối với người bán ma túy tên “Chuột” cho các bị cáo, Cơ quan điều tra không xác định được nên không đề cập xử lý trong vụ án.

[7] Đối với Mạc Thị Ph; Cao Tất Đ; Phan Văn N có hành vi mua trái phép chất ma túy để sử dụng. Công an huyện Vĩnh Linh đã xử phạt hành chính và lập hồ sơ quản lý người nghiện là có căn cứ.

[8] Về xử lý vật chứng: 02 viên nén màu hồng; 01 viên nén màu xanh đã giám định hết; 01 xe mô tô biển kiểm biển kiểm soát 74L1-152.93 đã được giao trả cho chủ sở hữu nên không xét; xe ô tô biển kiểm sát 74A-03452 của ông Trần Văn X các bị cáo sử dụng làm phương tiện đi bán ma túy nhưng ông X không biết nên không thu giữ.

Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus; 01 điện thoại Nokia 1202 của bị cáo C. 01 điện thoại di động hiệu Sam sung GalaxyJ7 của bị cáo T.

Đối với 01 Sim số 0942.674.777; 01 sim số 0967.272.010 của bị cáo C. 01 sim số 0943.556.345; 01 sim số 0167.497.8004 của bị cáo T; 01 phong bì niêm phong bao gói sau giám định có hình dấu “Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị” có ký hiệu MT 47. Các mép phong bì được dán kín, ngoài có chử ký của những người tham gia niệm phong, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Tịch thu sung công quỹ số tiền 1.000.000 đồng của bị cáo C do bán ma túy mà có, hiện đang bảo quản tại kho bạc Nhà nước huyện Vĩnh Linh.

Truy thu của Mạc Thị Ph số tiền 900.000 (chín trăm ngàn) đồng đây là khoản tiền thu lợi bất chính cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Trần Văn C (Tộ); Trần Văn T (Trâu) phạm tội “mua bán trái phép các chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần Văn C (Tộ) 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 03/5/2018.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54 BLHS.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T (Trâu) 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 03/5/2018 3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: Số tiền 1.000.000 đồng đã được chuyển bảo quản tại Kho bạc nhà nước huyện Vĩnh Linh theo biên bản giao nhận tài sản ngày 10/5/2018 của Công an huyện Vĩnh Linh.

- Tịch thu sung công quỹ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s plus; 01 điện thoại Nokia 1202 của bị cáo Trần Văn C. 01 điện thoại di động hiệu Sam sung GalaxyJ7 của bị cáo Trần Văn T.

- Tịch thu tiêu hủy Sim số 0942.674.777; 0967.272.010 của Trần Văn C. Sim số 0943.556.345; 0167.497.8004 của Trần Văn T; 01 phong bì niêm phong bao gói sau giám định có hình dấu “Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị” có ký hiệu MT 47. Các mép phong bì được dán kín, ngoài có chử ký của những người tham gia niệm phong, không có giá trị sử dụng. Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Linh theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/9/2018.

- Truy thu sung vào ngân sách Nhà nước ở Mạc Thị Ph số tiền thu lợi bất chính 900.000 đồng (Chín trăm ngàn).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đựợc bản sao án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HSST ngày 01/11/2018 về tội mua bán trái phép các chất ma túy

Số hiệu:15/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về