Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 24/07/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 24 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2017/QĐXX-ST ngày 26 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn K; sinh năm 1985; địa chỉ: Ấp h, xã Đ, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Trần Thị Cẩm Đ; sinh năm 1989; địa chỉ: Ấp H, xã Đ, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 23/02/2018 và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn K trình bày: Ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị Cẩm Đ tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2007 và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 102, quyển số 01, ngày 12/11/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian dài, đến năm 2013 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ý kiến trong cuộc sống từ đó thường xuyên cãi vã qua lại nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, ông K và bà Đ sống ly thân từ tháng 10/2016 cho đến nay, sau khi sống ly thân ông K và bà Đ có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong thời gian chung sống, ông K và bà Đ có 01 người con chung là Nguyễn Thị Ái D, sinh ngày 16/3/2009 hiện nay sống chung với ông K; về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn K yêu cầu ly hôn với bà Trần Thị Cẩm Đ; về con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên và không yêu cầu cấp dưỡng cho con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu gì.

- Đối với bị đơn bà Trần Thị Cẩm Đ: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà Đ, nhưng bà Đ không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà Đ 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên hòa giải nhưng bà Đ vẫn vắng mặt nên Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Bị đơn bà Trần Thị Cẩm Đ đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Đối với bị đơn bà Trần Thị Cẩm Đ chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa xét thấy tình trạng của vợ chồng ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị Cẩm Đ đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho ông Nguyễn Văn K được ly hôn với bà Trần Thị Cẩm Đ, về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Ái D cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên; về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn bà Trần Thị Cẩm Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị Cẩm Đẹ tự nguyện kết hôn vào năm 2007 và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 102, quyển số 01, ngày 12/11/2007 nên quan hệ hôn nhân giữa ông K và bà Đ là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ông K có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Xét lý do yêu cầu ly hôn của ông K, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông K cho rằng nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống từ đó thường xuyên cãi vã qua lại nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và sau khi sống ly thân ông Khởi và bà Đ có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để động viên vợ chồng ông K và bà Đ đoàn tụ với nhau nhưng bà Đ vẫn vắng mặt và ông K vẫn kiên quyết ly hôn với bà Đ vì tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, tình trạng của vợ chồng ông K và bà Đ đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc ông K xin ly hôn với bà Đ là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông K được ly hôn với bà Đ.

[3] Về con chung: Ông Nguyễn Văn K xác định trong thời gian chung sống, ông K và bà Đ có 01 người con chung là Nguyễn Thị Ái D, sinh ngày 16/3/2009; ông K yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Duy đến khi thành niên. Xét thấy, từ khi ông K và bà Đ sống ly thân cho đến nay cháu D do ông K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ông K khẳng định đủ điều kiện để chăm sóc tốt cho cháu D; đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án khi ghi nhận ý kiến của cháu D thì cháu có nguyện vọng được sống chung với ông K. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu D, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải giao cháu D cho ông K trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu D. Ngoài ra, căn cứ vào khoản 3 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho bà Trần Thị Cẩm Đ mà không ai được cản trở.

[4] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn K khẳng định đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Ái D và không yêu cầu bà Trần Thị Cẩm Đ cấp dưỡng cho con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn K xác định trong thời gian chung sống ông K và bà Trần Thị Cẩm Đ không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội, ông Nguyễn Văn K phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Bà Trần Thị Cẩm Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 3 Điều 235, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị Cẩm Đ được ly hôn.

[2] Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Ái D, sinh ngày 16/3/2009 cho ông Nguyễn Văn K trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên; bà Trần Thị Cẩm Đ không phải cấp dưỡng cho con chung. Giành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho bà Đ mà không ai được cản trở.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn K xác định không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn K phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm ông K đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0002108 ngày 01/3/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng; như vậy ông K đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm. Bà Trần Thị Cẩm Đ không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn bà Trần Thị Cẩm Đ vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 24/07/2018 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:15/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về