Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 11/09/2018 về ly hôn giữa chị B và anh B1

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 15/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2018 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ B VÀ ANH B1

Ngày 11 tháng 9 năm 2018; tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 63/2018/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2018 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2018/QĐXX-ST ngày 7 tháng 8 năm 2018; Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2018/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Bàn Thị B, sinh năm 1986, có mặt. Địa chỉ: Thôn T, xã T1, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

* Bị đơn: Anh Nông Văn B1, sinh năm 1985, vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn C, xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện của nguyên đơn và các lời khai tiếp theo tại Tòa án chị Bàn Thị B trình bày: Chị kết hôn với anh Nông Văn B1 ngày 3/4/2012 trên cơ sở tự do tìm hiểu, thỏa thuận và tự nguyện đi đến cuộc sống chung, vợ chồng tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục, tập quán địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện S, sau ngày cưới vợ chồng về chung sống tại gia đình anh B1. Chị xác định mâu thuẫn vợ chồng xảy ra khoảng tháng 02/2015, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm, lối sống, không thống nhất được với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau, tháng 5/2015 vợ chồng sống ly thân nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị và anh B1 được ly hôn nhau.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung với nhau.

Về tài sản, công nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không liên quan vay nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản và công nợ.

* Bị đơn anh Nông Văn B1 đã được Tòa án giao Thông báo về việc thụ lý vụ án đúng thời hạn, triệu tập nhiều lần đến Tòa án để làm việc nhưng anh B1 không chấp hành, anh B1 cũng không cung cấp cho Tòa án ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị B. Mẹ anh B1 là bà Giáp Thị Í xác định anh B1 đã biết được việc chị B xin ly hôn đối với anh, nhưng anh B1 không về giải quyết và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định pháp luật, nên Tòa án không thu thập được lời khai của anh B1.

* Tại phiên toà hôm nay: Chị Bàn Thị B vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày ở trên, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh B1 được ly hôn theo quy định của pháp luật.

Đại diệnViện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên toà, Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng thủ tục tố tụng; tại phiên toà, Hội đồng xét xử tiến hành đúng trình tự, thủ tục của phiên toà sơ thẩm; nguyên đơn chị Bàn Thị B thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo pháp luật quy định; bị đơn anh Nông Văn B1 đã không chấp hành các giấy triệu tập của Toà án là vi phạm khoản 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án đã giao giấy triệu tập phiên tòa; tống đạt quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ, nhưng anh B1 vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do vậy Tòa án xét xử vắng mặt anh B1 là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bàn Thị B và anh Nông Văn B1 được ly hôn.

Về con chung: Tài sản, công nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Bàn Thị B là người dân tộc, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn của địa phương và là hộ nghèo của địa phương năm 2018 nên không phải chịu tiền án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tiến hành giao quyết định xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập hợp lệ cho bị đơn anh Nông Văn B1, nhưng anh B1 vẫn vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn chị Bàn Thị B và những tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa thì có cơ sở xác định như sau:

Chị Bàn Thị B và anh Nông Văn B1 kết hôn ngày 3/4/2012, trên cơ sở tự do tìm hiểu và thỏa thuận, vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống cùng nhau tại gia đình anh B1, tình cảm ban đầu hòa thuận, hạnh phúc, do vậy cần xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Mâu thuẫn vợ chồng: Chị B xác định vợ chồng bất đồng về quan điểm, lối sống không thống nhất được với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình dẫn đến vợ chồng đối xử lạnh nhạt và sống ly thân từ tháng 5/2015 đến nay, tình cảm vợ chồng đã hết, cuộc sống chung không thể hàn gắn được, không còn khả năng đoàn tụ, do vậy chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh B1 được ly hôn. Anh B1 vắng mặt và không có lời khai tại Tòa án.

Căn cứ vào lời khai của chị B, xét thấy tình trạng hôn nhân của chị B và anh B1 đã xảy ra căng thẳng, trầm trọng, vợ chồng sống ly thân một thời gian dài, không còn quan tâm đến nhau, không có quan hệ tình cảm và không còn khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị B xin ly hôn, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị B, xử cho chị Bàn Thị B và anh Nông Văn B1 được ly hôn là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị B và anh B1 không có con nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản, công nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản;

do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Bàn Thị B là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn của huyện Sơn Động và là hộ nghèo của địa phương năm 2018 mã hộ nghèo số: 07648000780 nên chị B không phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 57 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử [1] Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Bàn Thị B và anh Nông Văn B1 được ly hôn.

[2] Về con chung: Không có.

[3] Về tài sản; công nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Miễn toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm cho chị Bàn Thị B.

Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2018/HNGĐ-ST ngày 11/09/2018 về ly hôn giữa chị B và anh B1

Số hiệu:15/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Động - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về