TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 151/2020/HS-PT NGÀY 21/02/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 21 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 73/2020/TLPT-HS ngày 09 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Đặng Văn H và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 320/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. ĐẶNG VĂN H, sinh ngày 17/9/19XX tại H P; ĐKHKTT: Số X/Y N X, tổ X, phường N X, quận L C, TP Hải Phòng; nơi cư trú: Số X Đ L T, phường T Q, quận Đ Đ, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam trong một vụ án khác, có mặt.
2. NGUYỄN VĂN MẠNH T1, sinh ngày 14/12/19XX tại H N; ĐKHKTT: PX GY FZ tập thể x p, phường T Đ, quận T X, TP Hà Nội; nơi cư trú: Số X hẻm Y/Z ngõ T H, phường C D, quận H B T, TP Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Bích H; có vợ Lê Thị N và 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/6/2019 đến ngày 20/6/2019, hiện tại ngoại có mặt.
3. NGUYỄN HOÀNG A, sinh ngày 15/11/19XX tại H N; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn P H 1, xã D T, huyện Đ A TP Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Phạm Thị P; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo ra tự thú bị tạm giữ từ ngày 11/6/2019 đến ngày 20/6/2019, hiện tại ngoại có mặt.
Ngoài ra còn có bị cáo Phạm Thanh T có kháng cáo song đã rút kháng cáo trước khi mở phiên tòa:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Thanh T, Đặng Văn H và Nguyễn Văn Mạnh T1 đã bàn bạc với nhau lập các tài khoản rồi đăng bài lên các hội nhóm trên trang mạng xã hội facebook để rủ người chơi bài, mục đích chơi bài bạc “bịp” qua đó chiếm đoạt tài sản của những người chơi cùng.
Ngày 10/6/2019, Thanh T thấy Nguyễn Hoàng A để lại số điện thoại trên bài đăng của mình trên facebook nên đã liên lạc với Hoàng A để rủ chơi bài. Sau khi liên hệ được với Hoàng A, Thanh T đã gọi điện cho Nguyễn Văn Mạnh T1 và Đặng Văn H thông báo về việc đã tìm được người chơi. Khoảng 21h30 phút ngày 10/6/2019, Thanh T, Hoàng A, Mạnh T1 và H đã gặp nhau tại quán nước khu vực trước số 428 Tây Sơn, phường Ngã Tư Sở, Đống Đa, Hà Nội. Sau khi gặp nhau, tất cả thống nhất về nhà Thanh T tại số X/Y ngõ T Q, phường T Q, Đ Đ, Hà Nội để chơi bài. Trên đường đi về nhà, Thanh T đã mua 02 bộ bài tú lơ khơ (52 lá) và nước uống hết 100.000 đồng. Khi về đến nhà Thanh T thì có Lê Thị N (sinh năm: 19XX; NKTT: số X ngách Y/Z ngõ T H, Phường C D, H B T, Hà Nội - là vợ của Mạnh T1) đang đứng chờ. Sau đó, tất cả lên tầng 3 nhà của Thanh T. Tại đây, Thanh T, H, Mạnh T1 và Hoàng A thống nhất đánh bạc dưới hình thức chơi “3 cây” được thua bằng tiền, cụ thể: Chơi bằng bộ bài lơ khơ 52 lá, bỏ các lá “10, J, Q, K”, Mỗi ván chơi mỗi người được chia 03 lá cộng điểm ai cao hơn người đó thắng (10 điểm cao nhất, 01 điểm thấp nhất); “Chương” là người chia bài (sau đó ai 10 điểm sẽ cầm “chương”), việc thanh toán thắng, thua được thực hiện giữa người cầm “chương” với người chơi; khi so điểm nếu trùng điểm sẽ so chất từ cao đến thấp là “Rô, Cơ, Tép, Bích” nếu trùng sẽ so tiếp đến lá bài từ cao đến thấp là “A, 9, 8, 7, 6, 5, 4, 3, 2”; nếu được 10 điểm sẽ được nhân đôi tiền cược, Nếu được sáp (03 lá bài giống nhau nhưng khác “chất”) sẽ được nhân 03 lần tiền cược, nếu được đồng hoa (03 lá bài liên tiếp đồng “chất”) sẽ được nhân 04 lần tiền cược; Mỗi ván từng người đặt cược tiền với người cầm “chương” thấp nhất là 50.000 đồng, cao nhất không có giới hạn. Khi bắt đầu chơi, Thanh T đã bỏ ra 1.250.000 đồng; H đã bỏ ra 3.100.000 đồng; Mạnh T1 đã bỏ ra 2.000.000 đồng và Hoàng A đã bỏ ra 2.600.000 đồng để đánh bạc. Trong quá trình đánh bạc, Thanh T, H và Mạnh T1 có sự bàn bạc thống nhất trong việc tráo đổi lá bài để Hoàng A luôn là người cầm “chương” và khi Hoàng A cầm “chương” thì Mạnh T1 và H sẽ giấu bài trong người để khi tính điểm sẽ cao hơn so với bài của Hoàng A. Sau khi chơi được khoảng 15 - 20 phút thì Hoàng A đã thua hết số tiền 2.600.000 đồng và Hoàng A đã vay của Thanh T 04 lần tiền với tổng số tiền là 20.000.000 đồng (lần 1 là 3.000.000 đồng; lần 2 là 7.000.000 đồng; lần 3 là 7.500.000 đồng; lần 4 là 2.500.000 đồng) để đánh bạc và thua hết. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, do thua hết tiền nên Hoàng A không chơi nữa và đi về. Trước khi về, Thanh T yêu cầu Hoàng A để lại chiếc xe Honda Vision màu đen xám, biển kiểm soát: 29S1-830.XX để làm tin và nhắn tin vào điện thoại của Thanh T xác nhận việc nợ số tiền 20.000.000 đồng và hẹn hôm sau sẽ mang tiền đến chuộc lại xe mô tô.
Sau khi Hoàng A đi về, Thanh T, H và Mạnh T1 chia nhau tiền thắng được của Hoàng A. Thanh T được chia 1.100.000 đồng, Mạnh T1 và H được chia mỗi người 750.000 đồng. Sau đó, Thanh T vứt bỏ 02 bộ bài lơ khơ (Hiện Cơ quan điều tra không thu hồi được) và mang xe máy của Hoàng A đi gửi tại tòa nhà Hà Thành Plaza (địa chỉ: số 102 Thái Thịnh, Phường Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội).
Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, Nguyễn Hoàng A đã đến công an phường Thịnh Quang trình báo và tự thú về hành vi đánh bạc của mình. Cơ quan điều tra đã thu giữ của Hoàng A 01 điện thoại Iphone 5S màu vàng cùng sim số: 039340XXXX.
Đến khoảng 9 giờ và 10 giờ 15 phút ngày 11/6/2019, Phạm Thanh T và Nguyễn Văn Mạnh T1 đã đến công an phường Thịnh Quang đầu thú và khai nhận hành vi của mình. Cơ quan công an đã thu giữ của Thanh T 01 điện thoại di động Iphone X màu trắng - đen cùng sim số: 084783XXXX, 01 xe mô tô Honda Vision màu đen, biển kiểm soát: 29S1-830.XX và 1.000.000 đồng; thu giữ của Mạnh T1: 750.000 đồng.
Ngày 31/7/2019 Đặng Văn H đã đến Cơ quan điều tra khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp cho Cơ quan điều tra số tiền 750.000 đồng là tiền hưởng lợi từ việc đánh bạc.
Tại cơ quan điều tra, Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Các bị can khai nhận đã đánh bạc dưới hình thức đánh “ba cây” được thua bằng tiền từ khoảng 22 giờ đến 23 giờ 30 phút ngày 10/6/2019 thì dừng chơi do Hoàng A hết tiền. Trong đó, số tiền 20.000.000 đồng Thanh T cho Hoàng A vay có 17.500.000 đồng là tiền Thanh T lấy trong ví ra còn số tiền 2.500.000 đồng là tiền Thanh T lấy từ dưới chiếu bạc đưa cho Hoàng A. Tổng số tiền dùng để đánh bạc dưới hình thức đánh ba cây được thua bằng tiền là 26.450.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 320/2019/HSST ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A đã phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt:
+ Đặng Văn H 07 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bắt thi hành án.
+ Nguyễn Văn Mạnh T1 07 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ 11/6/2019 đến 20/6/2019.
- Căn cứ khoản 1 Điều 321; Điểm i, s, r khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Hoàng A 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ 11/6/2019 đến 20/6/2019.
Ngoài ra bản án còn xử phạt bị cáo Phạm Thanh T 08 tháng tù, tuyên về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 30/10/2019 bị cáo Nguyễn Hoàng A có đơn kháng cáo và ngày 01/11/2019 bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 có đơn kháng cáo. Các bị cáo đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa các bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng Anh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: Bị cáo Đặng Văn H cho rằng án sơ thẩm xử nặng; Bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1 mẹ bị bệnh ung thư, vợ còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình; Bị cáo Nguyễn Hoàng A là lao động chính trong gia đình, con nhỏ mới sinh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, nhân thân của các bị cáo, vai trò của từng bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xem xét kháng cáo của các bị cáo đã cho rằng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 về tội “Đánh bạc” là chưa chính xác mà phải xét xử các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tuy nhiên tội “Đánh bạc” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ở khoản 1 có mức hình phạt ngang nhau và mức án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp nên giữ nguyên tội danh xét xử đối với các bị cáo song cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, xử sửa một phần bản án sơ thẩm:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 mỗi bị cáo 07 tháng tù về tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội “Đánh bạc”.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người làm chứng, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng từ 22 giờ đến 23 giờ 30 phút ngày 10/6/2019, tại tầng 3 nhà của Phạm Thanh T ở số X ngách Y ngõ T Q, phường T Q, quận Đ Đ, TP Hà Nội, Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A đã thực hiện hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh “ba cây” được thua bằng tiền với tổng số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 26.450.000 đồng. Các bị cáo Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 có hành vi gian dối trong quá trình đánh bạc nhằm mục đích để chiếm đoạt tiền của bị cáo Nguyễn Hoàng A đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 song cấp sơ thẩm lại xét xử các bị cáo Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 về tội “Đánh bạc” là chưa chính xác bởi lẽ hành vi đánh bạc của bị cáo Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A chỉ là thủ đoạn để các bị cáo chiếm đoạt tiền của bị hại, tuy nhiên tội “Đánh bạc” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ở khoản 1 có mức hình phạt ngang nhau và mức án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với các bị cáo là phù hợp nên giữ nguyên tội danh “Đánh bạc” để xét xử đối với các bị cáo Phạm Thanh T, Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1, cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A thì Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án; nhân thân của các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo Nguyễn Hoàng A tự thú về hành vi phạm tội của mình đã áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và áp dụng điểm i, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo Nguyễn Hoàng A đã xử phạt bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 mỗi bị cáo 07 tháng tù về tội “Đánh bạc” và xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” là phù hợp. Do vậy kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Đặng Văn H, Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A là không có cơ sở chấp nhận. Bị cáo Đặng Văn H quá trình chờ xét xử phúc thẩm bị bắt tạm giam trong một vụ án khác nên cần buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian là cần thiết. Đối với bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, con còn nhỏ; các bị cáo đều có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc không lớn; các bị cáo đều có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Do vậy thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A ra khỏi xã hội, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội mà cũng không gây nguy hại cho xã hội.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
[5] Bị cáo Đặng Văn H kháng cáo không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; Bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Văn H; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1, Nguyễn Hoàng A và sửa một phần bản án sơ thẩm:
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn H 07 (Bẩy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án về tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1 07 (Bẩy) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/02/2020 về tội “Đánh bạc”. Giao bị cáo cho UBND phường T Q, quận Đ Đ, TP Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A 06 (Sáu) tháng tù, cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 12 (Mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/02/2020 về tội “Đánh bạc”. Giao bị cáo cho UBND xã D T huyện Đ A, TP Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về án phí:
- Bị cáo Đặng Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
- Bị cáo Nguyễn Văn Mạnh T1 và Nguyễn Hoàng A không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Phạm Thanh T, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 151/2020/HS-PT ngày 21/02/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 151/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về